Tuesday, April 8, 2014

3-CÁM ƠN ANH : NGƯỜI LÍNH VNCH

By Hồ Đinh
3-CÁM ƠN ANH : NGƯỜI LÍNH VNCH
mường giang

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975) từng nói “Ðất nước còn thì còn tất cả”. Bởi vậy sau ngày 1-5-1975, đồng bào Miền Nam đã mất hết mọi thứ kể cả quyền được làm người bình thường, khi chính phủ và quân lực VNCH không còn tồn tại, để bảo vệ họ như hồi Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 và trăm ngàn chiến cuộc, khắp mọi nẻo đường đất nước, cho tới ngay 30-4-1975 bị rã ngũ theo lệnh buông súng đầu hàng.

Viết về sự hy sinh của Người Lính VNCH, tác giả Ý Dân đã đem hai lực lượng quân sự của hai miền Nam-Bắc VN so sánh và kết luận rằng : “ Cuộc chiến khốc liệt do Cộng sản Bắc Việt phát động bởi lệnh của Liên Xô và Trung Cộng nhằm cưỡng chiếm Miền Nam VN, bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản kéo dài đến 25 năm với những hậu quả tang thương cho quê hương và dân tộc Việt” .

Phía Cộng sản Bắc Việt đã cho hàng triệu bộ đội xâm nhập vào miền Nam. VNCH vì phải bảo vệ lãnh thổ và đồng bào, nên đã chống trả hết sức dũng cảm và mãnh liệt. Người Việt mấy ngàn năm chung gốc nguồn, huyết thống, lịch sử và tổ tiên cha me, bỗng dưng oan nghiệt bị ngoại bang áp đặt đứng về hai phía đối nghịch hận thù, bôi mặt tàn sát lẫn nhau trong hàng nghìn trận đánh lớn nhỏ, suốt cuộc chiến này. Sau ngày 30-4-1975 mọi xảo trá lần lượt bị phơi bày từ mọi phía, cho thấy cuộc chiến VN hoàn toàn do Hồ Chí Minh và đảng CSVN làm theo lệnh của QTCS gây ra. Cũng vì vậy, Bắc Việt đã được viện trợ vũ khí ồ ạt của Khối CSQT mà đứng đầu là Liên Xô và Trung Cộng.. nên được trang bị từ vũ khí cá nhân tới cộng đồng. Trong khi đó, QLVNCH được Hoa Kỳ trang bị phần lớn quân dụng đã lổi thời và nhỏ giọt nhưng Họ vẫn can đảm chiến đấu cầm cự và bảo vệ hữu hiệu được miền Nam VN cho đến ngày đau thương mất nước


Cũng nhờ tinh thần chiến đấu phi thường và sự hy sinh vô bờ bến của Người Lính, qua các trận đánh lừng danh trong quân sử như Tết Mậu Thân năm 1968, Bắc Việt bất ngờ đồng loạt tấn công 44 tỉnh lỵ của miền Nam VN, vẫn bị thảm bại ê chề, bỏ lại hơn 60.000 xác trên trận địa khi tháo chạy.

Mùa hè đỏ lửa năm 1972, người lính QLVNCH vẫn kiêu hùng đẩy lui được nhiều sư đoàn bộ đội Bắc Việt khi mưu toan thôn tính các tỉnh Quảng Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh, Bình Long. Tất cá các trận đánh trên đều ác liệt, đẵm máu, nói lên sự thiện chiến của người lính QLVNCH phải đương đầu với quân số đông gấp bội và trang bị vũ khí tối tân của giặc. Kết quả nhiều sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt phải rút lui, bỏ lại nhiều chục ngàn tử thi và hằng trăm xác chiến xa bị bắn cháy, tại mặt trận.

Tuy thế, số phận của người lính VNCH đã không may mắn bởi sự sắp đặt oan nghiệt của các thế lực quốc tế, qua bàn tay lông lá của đồng minh Mỹ. Rồi trong lúc chiến thắng gần kề, họ đã bị bức tử và đầu hàng. Ðưa ra lời nhận xét về người lính VNCH, nhà báo nổi danh Peter Kahn viết rằng “người lính miền Nam VN đã chiến đấu cho lý tưởng tự do, nhưng rất tiếc họ đã bị trói tay, buộc chân, cắt giảm viện trợ..” .Tóm lại, không có quân đội nào, khi gặp hoàn cảnh cay nghiệt trên, mà vẫn giữ được lòng trung thành tuyệt đối với Tổ Quốc và sự chịu đựng một cuộc chiến đấu lâu dài, tàn khốc như vậy. Còn nhà báo Denis Warner thì lên án gay gắt quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho QLVNCH vào lúc cần phải gia tăng. Sau cùng, để vinh danh người lính QLVNCH, nhà báo Peter Kahn đã đưa ra lời kết luận: “Rốt cuộc người lính QLVNCH đã tài giỏi hơn sự ước lượng của các chuyên gia quân sự trên thế giới. Phía mạnh hơn chưa hẳn là phía tốt hơn.”.

Về phía Bộ đội CS Bắc Việt, nhà văn gái Dương Thu Hương viết rằng mục tiêu mà bộ đội Bắc Việt theo đuổi trong suốt cuộc chiến, chỉ đem lại kết quả tai hại, là biến đổi xã hội văn minh VN bằng một mô hình xã hội man rợ..”

***
Tự ngàn xưa, quân đội Việt Nam luôn nổi tiếng kiêu hùng, nên đã đạt được nhiều chiến công hiển hách, trong suốt dòng lịch sử của dân tộc, qua sứ mạng ngăn chống các cuộc chiến xâm lăng của giặc phương Bắc lẫn phương Nam, trong đó có cả Lào-Thái.

Là con cháu của Tổ Tiên Hồng-Lạc, chúng ta dù được sinh vào thế hệ nào chăng nữa, ra đời trong nước hay hải ngoại, vẫn luôn có bổn phận ngưỡng mộ và hãnh diện, về công đức vĩ đại của tiền nhân, trong đó có quân đội bao đời,

Với ý nghĩa thiêng liêng và cao quý trên, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được hình thành trong giai đoạn đất nước tạm chia (1955-1975), chống lại cuộc xâm lăng bằng quân sự, của khối cộng sản đệ tam quốc tế, do Cộng Sản Bắc Việt đảm nhận. ÐÂY LÀ MỘT CUỘC CHIẾN SINH-TỬ, của quân đội MIỀN NAM, chống lại cuộc xâm lăng của bộ đội MIỀN BẮC, để giữ lại phân nửa gấm vóc giang sơn của Tiền-Nhân, không lọt vào gông cùm nô lệ của giặc đỏ.

Ðây không phải là một cuộc chiến giữa CỘNG SẢN BẮC VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ, như giới truyền thông phương Tây, thời đó và ngay cả bây giờ, đã bóp méo sự thật, mục đích đầu độc dư luận thế giới, làm giảm uy tín của QLVNCH. Có như vậy, Cộng Sản và thành phần ham sống sợ chết trốn quân dịch, hay cái đám con ông cháu cha, quan quyền nhà giàu du học ngoại quốc, có cơ hội vừa ăn chơi, vừa chửi Mỹ, vừa tô son vẽ mặt cho đạo quân tiền phong cộng sản tại Ðông Nam Á, tức Bắc Việt, mới có được, một chính nghĩa lý tưởng, đánh đuổi Mỹ-Ngụy cứu nước. Còn bọn phản chiến Miền Nam VN mới có chính danh, để khước từ trách nhiệm và bổn phận. đối với đất nước mình trong thời loạn.

Ðây cũng chính là nỗi thảm thê chất ngất của người Lính Miền Nam, trong hai mươi năm khói lửa. Vì định kiến, vì buông xuôi, vì thủ đoạn con buôn quốc tế, tất cả đã dồn ép QLVNCH vào chân tường, trong cuộc chiến đấu đơn độc, không hậu phương, không một chút tình quân-dân, cá-nước.. Trong đó thiệt thòi nhất, không phải là những đơn vị chính qui, dù thế nào chăng nữa, cũng đã có những phương tiện tiếp vận tối thiểu. Ðó là những người lính cô đơn, từ Nhân Dân Tự Vệ cho tới Cán Bộ Xã Ấp, Xây Dựng Nông Thôn, Cảnh Sát Chiến Ðấu hay Nghĩa Quân và Ðịa Phương Quân.. luôn phải sống chết với đất, với nhà, để bảo vệ ruộng đồng, làng xóm, đình chùa nhà thờ, những di tích lịch sử của tổ tiên bao đời tạo dựng.

Hai mươi năm chiến đấu, đời lính buồn ơi là buồn, trước mặt phải trực diện với một kẻ thù gian xảo độc ác, mất hết thiên lương nhân tính vì đã bị chủ nghĩa nhồi sọ, cho nên chỉ biết có giết người để đạt mục đích được khắc sâu trong da thịt. Còn sau lưng bị đâm lén bởi hậu phương vô tình bạc bẽo và cuối cùng trên đầu là đồng minh với đại bàng, luôn rình rập để phản bội và bán đứng. Mới đây có Nguyễn Thùy, Vũ Ngọc Tiến, Nguyễn Hòa và nhiều bộ đội miền Bắc, đã vẽ lên bức tranh vân cẩu của cuộc chiến VN, qua những hồi ký, tạp ghi, truyện dài, truyện ngắn.. kể cả những bức thư tâm tình rất cảm động. Tất cả hầu hết, đều thẳng thừng xác nhận hay nói đúng hơn đã lên án “chỉ có Bộ Ðội Bắc Việt hay Việt Cộng, vì thiếu thốn tình dục, thèm khát đàn bà, nên chỉ có chúng mới hãm hiếp phụ nữ, chứ người lính VNCH đâu có lý do gì, để mà cuồng dâm cả xác chết của nử cán bộ VC ? như một vài kẻ khùng điên ngẩu hứng, muốn cho đời biết tên tuổi, đã bịa chuyện để làm hoen ố thanh danh của chính đồng đội mình .

Cảm nhận đựợc thân phận nhược tiểu của đất nước và sự bất hạnh của dân tộc, nên người lính chấp nhận hy sinh đời trai, để làm tròn bổn phận cùng trách nhiệm của một con người có tim óc, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi TT.Dương Văn Minh bắt buông súng đầu hàng.

Sau đó, cộng sản Hà Nội thẳng tay cướp bóc, chẳng những mọi chiến lợi phẩm của chính phủ VNCH từ công ốc, ngân khố, quân trang dụng, trong đó có mười sáu tấn vàng y, của quốc gia, được Nguyễn văn Hảo giữ lại để nạp dâng công cho Bắc Bộ Phủ. Tệ nhất là VC táng tận lương tâm, cướp luôn tài sản mồ hôi nước mắt của đồng bào, mà trong số này, có nhiều mẹ chiến sỉ, đã từng nuôi dấu cán binh bộ đội, ủng hộ vàng bạc lúa gạo cho chúng, trong suốt thời gian chiến tranh.

Bao nhiêu bi kịch do Hà Nội đã tạo ra sau ngày Miền Nam VN bị cưỡng chiếm. Ngoài việc cầy mồ người chết để trả thù, đã bị thua VNCH trên chiến trường, VC còn hành hạ những phế binh, cô nhi quả phụ tử sĩ bị kẹt trong nước, với đủ thủ đoạn học được từ KGB, mà mới nhất là chiến dịch “đuổi tận, giết tuyệt” các thành phần trên, đang sống tại các chòi, dựng trong Nghĩa Ðịa Phước Bình, Sài Gòn và những nơi khác khắp nước.

Thì ra cách mạng bảy mươi năm, để giải phóng đất nước, mục đích cũng chỉ có thế thôi, nên từ đó theo thời gian, hằng ngàn huyền thoại về “Người Bộ Ðội Miền Bắc, Vượt Trường Sơn Vào Nam Ðánh Mỹ Cứu Nước”, đã theo lớp son phấn đảng tham nhũng, tham tàn, tham địa vị, tan biến theo lớp sóng phế hưng của cuộc đổi đời mạt lộ .

Ba mươi bảy năm tan hàng rã ngũ, quân-dân Miền Nam đã lần lượt đồng hành, qua hết chín tầng địa ngục trần gian nơi thiên đàng xã nghĩa. Nhưng người lính Miền Nam, sinh ra trong khói lửa, trưởng thành chốn chiến trường, nên thể xác dù đã bị bầm giập tan nát, tinh thần của người lính vẫn nguyên vẹn và không ai có thể thay đổi hay ngăn cản lý tưởng của họ. Công cuộc đấu tranh của Dân-Quân-Cán-Chính và thế hệ hậu duệ của VNCH từ mấy chục năm qua sau ngày mất nước, với chính quyền Cộng Sản VN trong nước cũng như tại Hải Ngoại, đã minh chứng hùng hồn, về sự chính danh và lý tưởng của người Quốc-Gia và QLVNCH. Tuy trong tay không còn súng đạn, đồng minh nhưng người Lính cũ năm xưa, vẫn tiếp tục con đường quang phục đất nước, bằng tim óc, thân xác còn lại, có đồng đội bên cạnh cùng chiến đấu, đồng bào trong các Cộng Ðồng Tị Nạn ủng hộ giúp đỡ tiếp tay và hãnh diện nhất là sự dấn thân ồ ạt của những thành phần trí thức trong nội địa và hải ngoại. Tất cả quyết tâm đạt cho bằng được “Chiến thắng cuối cùng”. Ðó là giựt xập chế độ bất nhân tàn bạo kẻ cướp của QTCSVN, cởi ách nô lệ thực dân mới, đang xiết cổ gần 90 triệu đồng bào trong nước, thực thi nền dân chủ pháp trị, bình đẳng, tự do .. để cho người Việt lấy lại quyền làm người, đã bị Hồ Chí Minh và đồng bọn cướp mất từ tháng 9-1845 cho tới ngày nay. Ðược như vậy, người Việt mới có cơ hội ngẩn mặt nhìn trời và quyền tự quyết về vận mệnh cũng như số phận của Nước Việt, trước kẻ thù không đội trời chung “Trung Cộng” và bọn thực dân mới trắng đỏ, trong số này lưu manh và bần tiện nhất không ai hơn Pháp và Hoa Kỳ.

“dấu binh lửa nước non như cũ
kẽ hành nhân qua đó chạnh thương
phận trai già rủi chiến trường
chàng Siêu, tóc đã điểm sương mới về” .
(Chinh Phụ Ngâm Khúc )

Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đã từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được sự thiêng liêng của lá cờ và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi xung trận. Quốc kỳ VN như một ngọn đuốc, soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cộng sản đệ tam xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tị nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975, đã ngồi lại với nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Ðó là cấp lãnh đạo tối cao nhất của Cộng Ðồng VN Tị Nạn Hải Ngoại, hầu như từ truớc tới nay chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.

Có còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Ðịnh.. Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẵm thêm thịt xương, máu và nước mắt Lính.

Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của quốc gia, lên Kỳ Ðài Huế trong Tết Mậu Thân, trền ngọn Ðồi Ðồng Long (An Lộc), Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Ðinh Công Tráng-Quảng Trị.. đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ NQ+ĐPQ, Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng. Năm 1973, cộng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng quân trên lãnh thổ VNCH theo tinh thần hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính VNCH, lại phải chịu nhiều thương vong, để bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay cộng sản. Ðiều vinh hạnh nhất hiện nay tại hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xã hội.. ai mà chẳng mơ ước được Cộng Ðồng người Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh không vướng bận.

Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975, trong khi hầu hết bọn khoa bảng trí thức xôi thịt, chuyên lợi dụng sự tự do dân chủ của chế độ, để phá thối đất nước miền Nam, ùn ùn tìm đủ mọi cách bỏ chạy trước ra ngoại quốc. Giờ vẫn chứng nào tật nấy, vẫn sống nhờ mồ hôi nước mắt của người Việt Quốc Gia nhưng cứ lại tiếp tục pha thối cộng đồng người Việt tị nạn, tuyên truyền và bẻ cong ngòi bút, làm lợi cho đế quốc CS đang cai trị VN, hầu kiếm chút danh cặn tiền bèo vào lúc cuối đời. Trong lúc đó, hằng vạn người lính chết hay bị thương, vì đã ở lại để bảo vệ thủ đô, bến tàu, phi trường, xa lộ và những bãi đáp trực thăng, giúp Mỹ và hậu phương bạc bẽo, có cơ hội chạy. Còn biết viết gì hơn, trước cảnh tượng, những người được may mắn thoát được địa ngục trần gian, đầu thai trở lại kiếp người. Nay hầu hết, mà trong số này có rất nhiều đấng HO, một thời sống nhục nơi các hỏa lò, địa ngục của CS, cũng hồ hởi kéo nhau về quê hương đã đổi mới. Thực chất, phần lớn chỉ để “trả thù dân tộc”, “vinh qui bái tổ” hay tệ nhất như Nguyễn Cao Kỳ, công khai đầu hàng VC, bêu xấu danh dự của người lính cũ, mà đương sự có lúc nhờ đó, mới được vinh thân phì gia, sung sướng một đời.

Thử hỏi trong giờ thứ 25, tính sổ lại xem có bao nhiêu tướng lãnh đã bỏ chạy ? Hay nói đúng hơn gần hết đã ở lại chiến đấu với đồng đội thuộc cấp, cho tới lúc tàn cuộc. Những danh tướng Lý Tòng Bá, Lê Minh Ðảo, Trần Quang Khôi, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Tấn Nghĩa.. há không có phương tiện như Nguyễn Cao Kỳ, để trốn chạy ra tàu Mỹ hay sao ? Nhưng họ là thanh niên thời đại, là kẻ sĩ nên coi trọng khí tiết làm tướng, hơn sinh mạng phù vân một đời. Vì vậy biết ở lại sẽ bị giặc đày đọa lăng nhục tới chết nhưng vẫn chấp nhận hoàn cảnh. Cuối cùng, kẻ thì tự tử, còn người bị giam cầm nhiều chục năm nơi tận cùng biên tái, làm gương muôn đời cho hậu thế soi chung, vì hai chữ hy sinh cao quý “lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh”, được tất cả mọi người từ dân tới lính, thương mến trân trọng.

Trong khi nguyên thủ quốc gia bị cưỡng bức từ chức, nhiều đại bàng tối cao tại Sài Gòn tìm đủ mọi cách bỏ chạy để giữ mạng. Còn TT Dương Văn Minh thì chuẩn bị đầu hàng giặc nhưng quanh thủ đô và khắp bốn phương tám hướng, tất cả những đơn vị còn lại của VNCH, vẫn hiên ngang chiến đấu trong đơn độc. Nên không ngạc nhiên khi được đọc được lời phê bình đầy trang trọng, của Sử gia người Anh, Sir Edward S Creasy, qua danh phẩm “Fifteen Decisive Battles of The World”, cho biết tầm quan trọng của một cuộc chiến, không phải chỉ căn cứ vào số người chết, tù binh và chiến lợi phẩm. Nó được tính bằng thành quả ngày hôm nay, do cuộc chiến thắng đem lại.

-NGƯỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH

Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250.000 người, gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Hiện nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính, càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.

Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ, xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.

Thế chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg, chỉ kết tội những Ðầu Sỏ trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật.. Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi, là người đã ở lại pháp trường, để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.

Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu, bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.

(QLVNCH, ảnh LTV.KBC)

Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia, nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội.. mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho cảnh ba đồng, ba cộc, của kiếp lính Miền Nam. Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tị nạn” sau ngày 30-4-1975, ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt những tên tuổi lớn một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố.. kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội.. cũng lợi dụng danh nghĩa người lính, để được tị nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào.. để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.

Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.

Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan, trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, vì không thể chịu nỗi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Asams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.

Sau ngày 30-4-1975, Tướng Loan tới tị nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại .

Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddic Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan, về sự ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại viết thêm một bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General, I ‘am so,so,so.. sorry”.Bao nhiêu đó chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “sống nhờ người tị nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.

Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SĐ Dù, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BĐQ có bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại Úy Trương Duy Hy, Pháo đội trưởng PĐC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân.

Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ đành “ăn cắp tin từ báo Mỹ” rồi Mao Tôn Cương, viết rằng: “VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử dụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo. Tóm lại QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy”. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến, để bảo vệ cho đám thú vật này, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.

(Không Quân VNCH, ảnh
Lê Tường Vũ - KBC/HN)

Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân, qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.

-NGƯỜI LÍNH VNCH BỊ TRÍ THỨC THIÊN TẢ ÐÂM SAU LƯNG :

Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để giày xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình, đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọt, phá hoại.

Trong Tạp Chí Làng Văn số 235 xuất bản tháng 3-2003, tác giả Lâm Lễ Trinh có viết bài ‘MTGPMN nói gì về Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Lực Lượng Thứ Ba và Chính khách Lưu Vong Miền Nam ?” . Bài viết này tác giả trên đã dựa vào tài liệu của VC, từ ba quyển ký ức của Võ Nguyên Giáp và bộ sách “chung một bóng cờ” của tập đoàn MTGPMN gồm Nguyễn Hữu Thọ, Trần Nam Trung, Trần Bạch Ðằng, Nguyễn Thị Bình..

Nhờ bài viết trên, ta mới biết, trong lúc đồng bào và chính phủ NVN đau khổ hấp hối vì bị Thế giới và Mỹ phản bội bán đứng cho CSQT, thì tại hậu phương, các chính khách con buôn của VNCH, đã múa rối bỉ ổi và chạy theo bợ đít VC để mong kiếm chút bã lợi danh sau cuộc đổi đời. Phan Nhẫn, một cán bộ VC hoạt động tại Paris viết :Thích Thiện Châu và Mạn Ðà La, lãnh đạo Phật giáo tại Pháp là phe ta, có liên lạc mật thiết với Thích Thiện Hoa. Thiện Châu đã về chầu Hồ và Mác năm 1998. Ở đây còn có cố đạo cấp tiến Nguyễn Ðình Thi, lập cái tổ chức lấy tên là “Communauté Vietnamienne” thường tụ họp với VC cũng như Trương Bá Cẩn, Lý Chánh Trung trong nước. Năm 1969, Hồ về với tổ Mac, các cố Nguyễn Ðinh Thi (Pháp), Vương Ðình Bích (Tây Ðức) và Trần Tam Tĩnh (Canada), đã tổ chức phát tang cáo Hồ thảm thiết.

Cũng lời Phan Nhẫn kể “Ngoài ra Ta còn đuợc sự hợp tác của các sĩ quan Sài Gòn, nguyên xuất thân từ lính khố xanh, khố đỏ Pháp, đang sống lưu vong tại Ba Lê như Ðổ Khắc Mai, Nguyễn Hữu Khương, Vương Văn Ðông, Nguyễn Văn Châu, Trần Ðình Thi.. Tất cả bọn lính Tây trên đều nói là rất hối hận vì đã lỡ làm quan tại VNCH, nay hối ngộ nên xin đảng cho gia nhập, để chuộc lại những lỗi lầm. ‘ Miền Nam đầy rẫy sâu bọ như vậy, làm sao chúng ta không mất nước ? Hung hăng nhât trong bọn nay là Trần Ðính Lan, do thâm thù VNCH đã trục xuất hắn về Pháp, sau khi lộ tẩy vụ muốn NVN trung lập, để thực dân trở lại. Bởi vậy từ năm 1966, Lan lập tại Paris cái gọi là “Forces Libres du VN”, tận trung với “bác đảng” tìm đủ mọi cách quậy phá chính phủ QG. Khôi hài nhất là câu chuyện mà Nhẫn kể với giọng xỏ lá “thậm chí lúc bi bạo bệnh, Lan xin với đảng, phủ cho mình Lá Cờ Máu”, để nở mặt khi xuống âm ty trình diện Hồ. Ngay lúc Ban Mê Thuột bị Bắc Việt cưỡng chiếm vào tháng 3-1975, Lan đã gọi điện thoại chúc mừng và lập đoàn đại biểu mang hoa tới mừng đảng tại Paris, khi nghe tin Rợ Hồ đã hoàn toàn chiếm được Miền Nam trưa ngày 30-4-1975, sau lệnh bắt QLVNCH buông súng rã ngũ của TT hai ngày “Dương Văn Minh”.

Cũng trong bộ sách này, Phan Nhẫn đâu có tha các chính khứa xôi thịt của VNCH, đã chạy sang Pháp như Âu Trường Thanh, Hồ Thông Minh, Nguyễn Hữu Châu.. luôn to miệng nhận là “Lực lượng thứ ba”, thành phần của nhóm đối lập Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Ðức, Lý Quy Chung, Lý Chánh Trung.. Cuối tháng 12-1972, Mỹ dội bom Hà Nội và Bắc Việt, bọn chính khứa trên la lối phản đối kịch liệt. Rồi khi Hiệp định ngưng bắn được ký kết, cuối năm 1973, bọn phản chủ tại Paris lại lập “Uỷ ban nhân dân đòi thi hành HĐ Paris 1973” cùng lúc với “Ủy ban đòi hòa bình và dân chủ”. Nhưng đau đớn nhất, là sự khinh bỉ của chính VC đối với bọn khoa bảng “giá trị không bằng cục phân” kể trên, qua lời chửi yêu của Phan Nhẫn “Bọn chúng biết là khi Mỹ rút ,VNCH sẽ sụp đổ, nên đòi trung lập, hòa giải, hòa hợp với đảng ta, để có cơ hội trở về tham chính . Nhưng điều mai mỉa với chúng, là đảng ta có bao giờ muốn thế”.

(Nữ Quân Nhân VNCH
ảnh Lê Tường Vũ KBC)

Ðể kết thúc bộ sách coi như vĩ đại nhất của đảng ta, bằng những lời thố lộ tâm huyết, của ba đại chính khứa NVN gồm Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Xuân Oánh, Dương Văn Minh . Nhẫn ghi “Có nói, đảng phải thông báo ra nước ngoài, để kẻ thù cũ cắn rứt lương tâm mà quay về “bác”. Còn Oánh thì cảm tháy thoải mái, sau khi thoát được sự kềm kẹp của Mỹ Nguỵ. Riêng TT Minh công bố hãnh diện được làm công dân xã nghĩa VN .“Ðó là thực chất của những khuôn mặt và tổ chức chính trị “lực lượng thứ ba đối lập” , đã giúp giáo cho CSQT, tiêu diệt chính quyền Quốc Gia tại NamVN, rồi cuối cùng chính những người phản bội, cũng nhận chịu hậu quả thảm khốc về vật chất và tinh thần như mọi người, thêm vào đó là bia đá nghìn thu và bia miệng loan truyền miên viễn, tiếng xấu xa, không làm sao rửa sạch, cho dù ngày nay vẫn còn ít người tuyên bố “Nhờ Minh ra lệnh đầu hàng sớm, họ mới sống sót”. Hỡi ôi sống như cuộc sống của cả nước VN hiện nay, kể cả người Việt lưu vong, thì được sống thêm cũng đâu có ý nghĩa gì .

Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.

Chính bọn trí thức thiên tả này, đã lợi dụng tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tuyền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.

-MỸ BÁN ÐỨNG VNCH CHO CỘNG SẢN :

Người Mỹ đã ký kết hiệp định ngưng bắn Ba Lê, chỉ với mục đích rút quân và đem tù binh về nước, để Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống Mỹ và Kissinger tiếp tục giữ chức lớn trong chính quyền Hoa Kỳ. Ngoài mục đích trên, người Mỹ không cần đếm xỉa gì tới tương lai cũng như số phận của người Việt, nước Việt.

Sau này, khi VNCH đã sụp đổ, nhiều nhân vật quốc tế liên quan tới cuộc chiến VN, đều phê bình sự tắc trách của Hoa Kỳ, khi dựng lên cái quái thai hiệp định ngưng bắn, để bán đứng đồng minh của mình. Chính TT. Nixon cũng đã xác nhận lỗi lầm của mình trong tác phẩm “No More VietNam” rằng tôi đã thấy những vấn đề nan giải của hiệp định Ba Lê nhưng quan trọng nhất trong thỏa ước này là đã không bắt buộc Hà Nội rút hết bộ đội đã xâm nhập về Bắc. Còn M. Gauvin, đại sứ Canada tại Hy Lap, nguyên chủ tịch uỷ hội kiểm soát quốc tế (CICCS) tại VN, đã tuyên bố “VNCH bị sụp đổ hoàn toàn do quyết tâm bỏ rơi của Hoa Kỳ. Riêng cái hiệp định ngưng bắn ký kết tại Ba Lê năm 1973, đã không phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của người dân Miền Nam, là muốn sống hòa bình và không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, nên ngay từ năm 1954, họ đã phải bỏ miền bắc để vào Nam, chạy trốn VC”. Nhưng phê bình một cách thẳng thắn, là Sir R.Thompson “Sự sống còn của Nam VN, đã bị người Mỹ tước đoạt hay nói thẳng là bán đứng. Có làm như vậy, Hoa Kỳ mới tránh cho nước mình bị khỏi bị xâu xé tan nát. Một điều nghịch lý khác là cộng sản Bắc Việt, bị bó buộc tới bàn hội nghị, không phải để cứu họ, mà là cứu nước Mỹ. Nên dĩ nhiên Mỹ phải đem đồng minh VNCH ra bán đứng, để đền ơn cứu mạng”.

Ðau xót hơn hết, đó là thời gian từ 1969-1973, ngoài chiến thắng Tết Mậu Thân (1968), QLVNCH đã liên tiếp đánh bại CS Bắc Việt, khắp các Mặt Trận ngoại biên tại Kampuchia và Lào, cũng như Mùa Hè Ðó Lửa 1972. Thế nhưng tại bàn hội nghị Ba Lê, cuộc đàm phán của Kissinger chẳng thu được một kết quả gì mới mẽ, trước khi hai phía đặt bút ký vào tờ giấy lộn không hơn không kém. THeo Lê Mai và Lê Ðức Thọ tuyên bố năm 1983 “những điều khoản được chấp nhận năm 1973, thực chất chỉ là những đề nghị ban đầu của đảng ta đưa ra từ năm 1969. Ðó là quân Mỹ phải rút về nước, còn bộ đội Bắc Việt phải ở lại miền NVN, để ta đánh cho Ngụy nhào, thống nhất đất nước”.

Ngoài vấn đề phủi tay tại Nam VN sau khi đã đem được tù binh và hài cốt quân Mỹ về, quốc hội Hoa Kỳ còn bội ước, khi liên tục biểu quyết các đạo luật ngăn cấm can thiệp bằng quân sự của Mỹ tại Nam VN, cắt giảm dần quân viện, không chịu hoán đổi quân trang quân dụng, như các thỏa ước đã ký kết . Sự bất công vô lý, đến đổi Tùy Viên Quân Sự (DAO), tại Nam VN, đã phải viết “Người Lính VNCH do đó, đã phải chấp nhận sống với những nhu cầu, dưới mức bình thường, làm cho tinh thần người chiến sĩ xuống thấp, vì bị hạn chế các phương tiên ngăn chống giặc”.Chỉ có Robert S McNamara, cựu bộ trưởng quốc phòng thời TT.John Kenedy, thì vẫn ngoan cố để chạy tội, quên hết trách nhiệm của mình, trong tác phẩm “In Retrospect : The Tragedy and Lessons Of VN”, bêu xấu và đổ hết trách nhiệm làm mất nước cho QLVNCH.

Sự thật, khi viết về Quân Lực VNCH, hầu hết các nhà quân sử trên thế giới cũng như các Sử Gia hiện tại của VN như Nguyễn Khắc Ngữ, Chánh Ðạo, Phan Nhật Nam, Trần Ðại Sỹ, Phạm Huấn, Nguyễn Ðức Phương, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng, Nguyễn Lý Tưởng, Trần Ðông Phong, Vương Hồng Anh, Trần Ðỗ Cẩm, Nguyễn Huy.. đều đứng chung trên quan điểm ca tụng tinh thần hy sinh và trách nhiệm của người lính VNCH, đối với đất nước và đồng bào. Nhờ thiện chiến, có kỷ luật nghiêm minh, biết bổn phận, nên trong suốt cuộc chiến hai mươi năm, dù lúc nào VNCH cũng bị Bắc Việt tấn công lén như Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972.. nhưng Họ đã can trường lật ngược hoàn cảnh, để chuyển thắng thành bại. Hầu hết lính và các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đã quyết tử trong giờ thứ 25, tới khi được lệnh bắt buông súng của Dương Văn Minh, mới chịu rã ngũ.

Mới đây có nhiều tác phẩm được công bố như The Pategon Papers, Fires In The Lake của Frances Fitzgeral, The Best and The Brightest của Halberstam và nhất là các hồi ký của Kissinger.. đều cho thấy từ khởi đầu cuộc chiền, đến khi tàn cuộc, cho thấy người Mỹ luôn luôn là đạo diễn chính trong thảm kịch VN. Trong lúc cộng sản Bắc Việt, được Tập Ðoàn Cộng Sản Quốc Tế cả Liên Hiệp Quốc, viện trợ quân sự thả dàn, thì QLVNCH bị Hoa Kỳ qua Viện Trợ, chèn ép bắt bó tay, nên phải chiến đấu trong nghiệt ngã để sinh tồn. Theo Harry H Noyes, qua tác phẩm “Herdic Allies”, với tư cách là một sĩ quan cao cấp của Mỹ, đã chiến đấu nhiều năm ngoài mặt trận, bên cạnh QLVNCH, nên đã có những nhận định rất thẳng thắn, trái ngược với mồm mép miệng lưỡi bọn nhà báo và chính trị con buôn Mỹ và tây phương. Theo tác giả trên, thì thái độ bêu xấu hay bóp méo sự thật, nhắm vào QLVNCH, chẳng qua chỉ là sự kỳ thị chủng tộc thường thấy của bọn da trắng, lúc nào cũng tự xem mình là văn minh, đứng trên các dân tộc khác. Một điều quan trọng khác, là suốt cuộc chiến đẫm máu tại Nam VN, đa số dân Tây phương và Hoa Kỳ, đã bị điệp viên của khối cộng sản, củng như KGB của Liên Xô, mua chuộc hay tuyên truyền. Do đó lúc nào họ cũng có cảm tình với Bắc Việt, nên cứ bóp méo sự thật, để khinh bỉ VNCH.

Bảo rằng QLVNCH không chịu chiến đấu, trốn trách nhiệm, chỉ muốn khoán trắng cho quân đội Mỹ, kể cả sự oanh tạc Miền Bắc, là một ngang ngược và phi lý. Ðể trả lời, nhiều người đã hỏi ngược lại người Mỹ rằng “vậy thì từ năm 1955-1965 và cuối năm 1971-4/1975, khoảng thời gian đó, người Mỹ hoặc chưa tới hay đã rời VN, vậy ai đã chiến đấu với bộ đội Bắc Việt ?”. Còn về vấn đề oanh tạc Miền Bắc, từ đầu tới cuối có khi nào Hoa Kỳ giao trách nhiệm cho Không Quân VNCH, cũng như chịu cung cấp cho họ các loại phi cơ tối tân, để chiến đấu cho có hiệu quả. Một bí mật khác, là người Mỹ dành độc quyền oanh tạc Miền Bắc, để thi hành lệnh của Hoa Thịnh Ðốn, là đem gần hết số bom đổ xuống biển hay núi rừng không phải là mục tiêu quân sự cần tiêu diệt. Bởi vậy làm sao dám giao nhiệm cho KQ.VNCH ?, nhất là thời gian Nguyễn Cao Kỳ còn nắm quyền, luôn có ý định Bắc tiến.

Còn trong thời gian Mỹ tham chiến tại VN, mở các cuộc hành quân tiêu diệt cộng sản. Tất cả đều là HÀNH QUÂN HỖN HỢP, giữa quân Ðồng Minh-Hoa Kỳ và VNCH, tiêu biểu như HQ Cedar Faces tại Vùng Tam Giác Sắt (Bình Dương-Hậu Nghĩa), đầu tháng 1-1967, tiếp theo là HQ Toledo, mục đích càn quét Chiến Khu C và Cục R, do Lực Lượng hỗn hợp, gồm Lữ Ðoàn 173 Nhảy Dù-Hoa Kỳ cùng 2 Tiểu Ðoàn 33-35/Biệt Ðộng Quân/VNCH đảm trách. Ðặc biệt tại Ðiện Biên Phủ KHE SANH cuối năm 1967, vẫn có quân VNCH tham dự, đó là TĐ37- BĐQ, thuộc Liên Ðoàn 1/BĐQ của Quân Ðoàn I.

Sau cuộc chiến, để chạy tội bán đứng đồng minh, cũng như phản bội Tổ Quốc và đồng bào mình, Hoa Kỳ và bọn khoa bảng-trí thức thân cộng Miền Nam, những người muôn năm trong dòng sử Việt, được bia đời phong cho danh hiệu là “TRÍ THỨC CHỒN LÙI”, còn các lãnh tụ cộng sản như Stalin, Mao Trạch Ðông, kể cả Hồ Chí Minh, coi rẻ hơn CỤC PHÂN NGƯỜI vì suốt kiếp chẳng làm được một điều gì tốt hay ích lợi, để giúp cho đất nước và đồng bào. Bọn trí thức này theo chân Người Việt tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại, vẫn sống cao sang quyền thế như lúc còn trà trộn trong các Ðại Học, Chùa-Nhà Thờ, Tòa Báo, trên các trang sách-thơ, vẫn chứng nào tật nấy, không hề thay đổi lương tâm một chút gì, dù phong trần đã nếm, vinh nhục bề bề và trên hết là vẩn bám vào Người Việt Tị Nạn Cộng Sản để mà sinh tồn, dù rằng chúng đã nói là ÐÃ ÐI HẾT BIỂN nhưng lại không dám về sống với Việt Cộng, để hưởng Vinh Hoa Phú Quý, Tự Do Dân Chủ.. trong Xã Nghĩa Thiên Ðàng, như chúng hằng ca tụng trên miệng lưỡi, còn tay xô đẩy tầng lớp dân quèn, hô hào họ trở về tiếp tay phụng sự cho đảng. Nhỡ mai này trời xui đất khiển, có một cuộc đổi đời, thì bọn “chó nhảy bàn độc này” lại hồ hởi ào ào về nước, để đòi ghế, như chúng đã từng dành giựt với chính quyền VNCH trước tháng 5-1975.

Chính người Mỹ và bọn trí thức-khoa bảng thân cộng này, trước sau vẫn đổ trách nhiệm làm sụp đổ Miền Nam cho các cấp lãnh đạo của VNCH. Riêng sự bảo rằng VNCH không có lãnh đạo xứng đáng, ngang cơ để đối đầu với cáo già Hồ Chí Minh của Bắc Việt, sau khi TT Ngô Ðình Diệm bị hạ sát vào ngày 1-11-1963, là điều suy nghĩ quá đáng và đâu có khác gì việc Mỹ nói QLVNCH không chiến đấu, mà chỉ giao hết cho quân đội Hoa Kỳ.

Nhưng mai mỉa nhất vẫn là lời xác nhận của Kissinger, khi cho bạch hóa các tai liệu cũ liên quan tới chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975 ) “Mỹ đã chơi với Trung Cộng từ năm 1972, vậy thì bán Miền Nam VNCH cho Cộng Sản Quốc Tế Bắc Việt, qua Hiệp Ðịnh Paris 1973, cũng đâu có gì lạ ?”.

Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quãng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do, không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước Cộng Sản, trong đó có CSVN.

Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của NVN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải Tạo”, để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nỗi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là không còn bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục, của người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, trùn đất, cào cào.. kể cả cỏ chai và cỏ diệu, để thay cơm, để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẵn bên cạnh :

“Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nửa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn ..”

Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết , CSQT cũng không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tử Sĩ của VNCH, lại càng bị đoạ đày thê thảm.

- Thân Phận Người Thương Phế Binh VNCH

Còn nhớ lại những ngày tháng tư của ba mươi bảy năm về trước (30-4-1975), không biết sao mà năm đó trời bỗng đổ mưa thật sớm và lớn hơn bao giờ hết. Mưa làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của những người lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Rang, Phan Thiết, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Hòa và Sài Gòn.

Trong cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa học trò, làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo cơn mưa, mịt mù đạn pháo.

“Bồ Đào mỹ tửu, dạ quang bôi
dục ẩm tỳ bà, mã thượng thôi
tuý ngọa sa trường, quân mạc vấn ?
cổ lai chinh chiến, kỹ nhân hồi ”

Bốn câu thơ cổ trong bài “Lương Châu Từ” của Vương Hàn (687-726) đã nói lên thân phận của người lính chiến, sống và chết không có biên giới, nên mấy ai dám nghĩ tới chuyện trở về ? Và giọt mưa nào đây vừa lăn trên má, đã khiến cho người lính già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến cũ, những căn hầm tránh pháo ngập mưa, những nấm đất đào đấp vội vàng, để vùi bạn vừa ngã gục và những thương binh rên xiết, đang chờ cấp cứu.

Tất cả đã thành cổ tích. Giờ chỉ còn biết ngồi đây mà nhớ lại những ngày xa cũ. Chúng ta, tất cả đều là những người VN tội nghiệp, trót đầu thai lộn trong thế kỷ này, nên đã cùng nối vai lần lượt bước lên những giàn lửa đỏ. Cuối cùng, kẻ chết thì bị giày mồ, tan xác, còn người sống, nếu không sống kiếp mây chiều lang thang, thì cũng lết lê phận bèo trong vùng giặc chiếm, để gục đầu thương hận, mà khóc cho quê hương vì đâu máu xương chất ngất, vì đâu mà kiếp sống của con người, tới nay vẫn không bằng cây cỏ bên đường.

Tất cả chỉ còn là kỷ niệm trong nhớ, vào những ngày đầu đời mẹ bỏ con trong gánh dầm mưa chạy loạn, giữa tiếng bom đạn, máy bay gầm thét, của Việt Minh và Pháp. Tóm lại, chúng ta đều ra đời và trưởng thành trong tiếng súng, cùng với bom đạn làm rách vỡ da thịt của quê hương. Rồi cũng vì người, vì “tang bồng hồ thỉ, nam nhi trái, mà giốc ngược cả tuổi trẻ, đời trai, vào cốc men đắng cay, uống cạn hạnh phúc của chính mình.

Đất nước hai mươi năm chinh chiến, hai mươi năm dài hờn hận, đã giày vò người lính miền Nam, trong mưa bom đạn xéo não nùng. Rốt cục những người nằm xuống, những kẻ ra đi hay ở lại chịu cảnh ngục tù khổ sai của VC, ai nấy cũng đả trả xong cái nợ “da ngựa bọc thây”, tủi nhìn từng trang lịch sử của nước nhà, bị giặc thù bôi nhọ và khép kín.

Trưa 30-4-1975 Sài Gòn thất thủ, miền Nam VN từ bên này cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải, chạy ngang vĩ tuyến 17 tới mũi Cà Mâu, đã chính thức thuộc về lãnh thổ Xã Hội Chủ Nghĩa đệ tam quốc tế cộng sản, có tổng đài ở tận Nga Sô. Viết. Cũng từ giờ phút đó, khi mà chiếc mặt nạ hòa bình của người cộng sản đã cởi, để lộ những khuôn mặt thật của các thây ma vô hồn, lạnh băng và hung hiểm, thì cũng là lúc, đồng bào mới sực tỉnh và thương tiếc người lính VNCH. Nhưng than ôi tất cả đã muộn rồi, họ đã ngã gục không phải tại chiến trường vì đạn pháo của VC, mà ngay trên hè phố Huế, Đà Nẵng, Phan Thiết, Sài Gòn..bởi chính những viên đạn ích kỷ, hám danh, những miệng lưỡi ngòi bút, của chính phe mình.

Ai chẳng một lần về với đất ? khác chăng là sớm hay muộn, vinh với nhục và sống chết sao cho ý nghĩa của một kiếp người. Chỉ tội nhất là những người lính chưa chết nhưng coi như đã chết vì thương tật chiến trận và những vết thương lòng. Họ không chết mà chỉ bị thương nặng và tất cả đã gởi lại chiến trường một phần thịt da của mẹ, ở Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Xuân Lộc..và ngay tại Sài Gòn, vào lúc mà cây cột đèn cũng muốn chạy, để khỏi bị VC giết chết. Họ ở lại làm vật hy sinh cản xe tăng, hứng đại pháo của giặc thù, để kiếm thêm một chút thời gian, một bầu trời an toàn, một dòng sông lặng sóng, giúp cho mọi người từ dân tới lính, bình yên di tản.

Nay thì từ quan tới lính, ai cũng kiếm cách đi khỏi quê nhà, bỏ lại những bóng ma của quá khứ và những người thương phế binh sống sót, tủi hờn, đang lê lết phận bèo khắp đầu đường xó chợ. Thời gian có thay đổi, lịch sử cũng sang trang nhưng thân phận của người thương binh và gia đình của họ, chẳng có gì mới lạ, vẫn lấy nước mắt làm mưa rửa mặt hằng ngày. Buổi trước, khi VC tràn vào, họ bị bỏ lại ở những quân y viện, làng phế binh, không còn đại bàng, đồng đội và hậu phương. Bây giờ thì dần hồi chết đói, chết nhục trong thiên đàng xã nghĩa, trước sự xa hoa thừa mứa của VC, Việt Gian và Việt kiều muôn phương, vinh quy bái tổ, aó gấm về làng, mà trong dòng người đổi đời này, không làm sao mà đếm hết, những cấp chỉ huy và đồng đội cũ.

“Có làm lính mới cảm thông cho kiếp lính nghiệt ngã đoạn trường. Có làm dân thời ly loạn mới biết được thế nào là mạng sống của con người, giữa bom đạn vô tình, héo úa còn thua cây cỏ. Có là người thương phế binh sau khi xuất viện, bỏ lại một phần cơ thể, mới thật tội nghiệp cho tuổi trẻ bạc phước vô phần. Thê thiết tận cùng là đời của người lính về chiều lại còn mang thương tật. Hỡi ôi những mảnh đời cùng khốn ấy rồi sẽ đi về đâu, trong cảnh mưa gió phũ phàng của cuộc đời?

“ngày xưa, là lính vì đời chiến đấu
là cầu đem người sang sông
hôm nay làm ma cô đơn, gục chết bên vệ đường ..”

Tất cả hình như chỉ còn có kỷ niệm sau cuộc đổi đời. Là định mệnh mà chúng ta, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo vòng đời nổi trôi của dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận.

Mất nước nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đã đi hết rồi, chỉ còn ở đây là những thương phế binh xa cũ, những hồn ma cô quạnh, sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận:

“Di tản khó, sâu giòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây sình mặt nát, lạch mương tanh..”
( Tô Thuỳ Yên)

Ta thán phục, ta hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử cũ. Sẽ vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần bình Chiêm, phá Bắc, đuổi giặc Mông trên sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành sử thế nào mà muôn người như một, khiến cho người trong nước, gia trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội Nghi Diên Hồng. Sau này mới vỡ lẽ, thì ra đó là tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phận của kẻ sĩ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.

“Tôi không là tôi nữa,
từ khi được xuất ngũ
có quạ đen đậu trên đầu
có bao nhiêu đợi chờ đau khổ..”

Thanh niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh sau khi được xuât ngủ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người mẹ già từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê thiết quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiều. Ai đã tùng thấy chưa, cảnh vợ lính hay người yêu, chỉ một lần vào thăm người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu:

Làm người bình thường, sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh áo, huống chi phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ..

“Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà
thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo ngưởi xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ..”
(Phạm Duy).

Nhưng chiến tranh chưa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành tàn phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.

Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống ? Có thương không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nữa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tắm mưa. Kiếp sống phận bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường

Hai mươi năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nữa, thì xác của nam nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đã chất cao như núi, máu chảy thành sông. Rốt cục chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do, thống nhất. Người cả nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ phiá, bởi cổ được mang nhiều thứ gông, cả tư bản và đảng CS cầm quyền.

Nhưng thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ cũ còn, được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi..thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực nghèo. 30-4-1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui tàn phế, thì bị xua đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay cả ngôi nhà của mình.

19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết.
30-4-1975 tại Tổng Y Viện Cộng Hòa-Sài Gòn.

Thảm họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị, khi giặc về ? Có ai cầm được nưóc mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn thương binh, nối gót dắt dìu ra cổng. Người sáng giắt kẻ mù, kẻ bị thương nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với nước mắt đoanh tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết hậu phương. Một số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã ba Chú Iá, Gò Vấp, những người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính bèo.

Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. Ba mươi bảy năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì. bóng ma trơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tối. Đâu có ai muốn nhắc tới những thân phận hẳm hiu trong vòng đời tục lụy, kể cả những cấp chỉ huy cũ, hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở hải ngoại.

- Xin hãy thương lấy ho, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngã.
- Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.
- Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân.
- Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối
- Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong căn nhà VN to lớn, đã được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường viễn xứ, để họ an tâm chờ đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.

Ngày xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng ngoài quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối duyên xưa:

“Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng
liên ẩm, đối ẩm, đòi phen
cùng chàng lại kết, mối duyên đến già ..”
(Chinh Phụ Ngâm)

Nhưng người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương vừa ngưng tiếng súng, lập tức từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị giày mồ, lính bị thương tàn phế bị xua đuổi ra khỏi cuộc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng thương hơn người lính VNCH ?

“Dẫu binh lửa nước non như cũ,
kẻ hành nhân qua đó chạnh thương”
(Chinh Phụ Ngâm)

Cuộc đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nỗi buồn thiên cổ, xin hãy nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ . Nghiêng mình, cúi đầu cảm tạ những vị ân nhân, đã và đang hết lòng cưu mang, giúp đỡ tận tình “Thương Phế Binh, gia đình kể cả cô nhị quả phụ VNCH”, hiện đang sống kiếp trầm luân rách đói, trong địa ngục VN.

Thang 4-2012
Mường Giang

No comments:

Post a Comment