35 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc
Hoàng Thùy - Nguyễn Hưng (Vnexpress) - Tháng 1/1979, Việt
Nam mở chiến dịch Tây Nam lật đổ chế độ diệt chủng Khmer đỏ thân Trung Quốc tại
Campuchia, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố "dạy cho Việt
Nam một bài học".
Quan hệ Việt - Trung bắt đầu rạn nứt năm 1968 khi Việt Nam
đồng thời giao hảo với cả Liên Xô và Trung Quốc trong bối cảnh mối quan hệ 2
nước này xuất hiện nhiều xung đột căng thẳng. Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới
thăm Bắc Kinh và đạt được thỏa thuận với Trung Quốc. Ba năm sau đó, Việt Nam từ
chối tham gia liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc.
Nhấn vào các mũi tên trên bản đồ để xem chi tiết diễn biến
cuộc chiến năm 1979.
Bắc Kinh đã xem đó như mối đe dọa. Tháng 5/1975, Khmer Đỏ
cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu, thọc sâu vào lãnh thổ Việt
Nam, tàn sát hàng nghìn dân thường. Đứng sau viện trợ cho Khmer Đỏ về vũ khí,
khí tài cũng như cố vấn quân sự là Trung Quốc. Tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa
cũng nổi lên rõ hơn khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo.
Ngày 3/11/1978, Việt - Xô ký hiệp ước hữu nghị 25 năm -
chính thức xác nhận Việt Nam đứng về phía Liên Xô. Gần 2 tháng sau, quân đội
Việt Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ
chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc quyết định dừng viện trợ cho Việt Nam.
Cuộc chiến 30 ngày
Rạng sáng 17/ 2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua
biên giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm
(Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200 km.
Dù từng tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công
của Trung Quốc vẫn bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới.
Theo Niên giám châu Á năm 1980, thời điểm Trung Quốc tấn
công, tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ
có khoảng 50.000 quân (xem chi tiết).
Trong khi đó, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và 32
sư đoàn bộ binh độc lập; 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo
binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa
tiễn. Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người, gấp hơn 10 lần lực lượng tham
chiến thực tế của Việt Nam.
Trên mặt trận Lạng Sơn, các cánh quân lớn của Trung Quốc
chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chất (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân
Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn). Dù bị bất
ngờ song chỉ với lực lượng dân quân địa phương, Việt Nam đã quả cảm chặn đánh,
ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày.
Những người lính đầu tiên bảo vệ đất nước là bộ đội địa
phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh
biên giới. Ảnh tư liệu.
Ngày 20/2, Trung Quốc tăng cường lực lượng chi viện, mở các
đường tấn công mới vào điểm cao nhằm tiến xuống phía nam Đồng Đăng. Quân và dân
Lạng Sơn bám trụ trận địa, đánh trả mạnh mẽ các mũi tấn công phía trước, phía
sau của địch, buộc quân xâm lược phải co về đối phó và bị đẩy lùi ở nhiều mặt
trận.
Sau 10 ngày chiến đấu không đạt được mục tiêu, ngày 27/2,
Trung Quốc tung thêm một quân đoàn nhằm vào thị xã Lạng Sơn dùng chiến thuật
biển người hòng xâm chiếm các mục tiêu quan trọng. Cuộc chiến diễn ra quyết
liệt giữa 2 quân đoàn tăng cường của Trung Quốc và lực lượng vũ trang địa
phương Việt Nam. Ở điểm cao 417, đoàn An Lão đã đánh bật hàng chục đợt tấn
công, loại khỏi vòng chiến đấu trung đoàn 850 của Trung Quốc. Đặc biệt, ở khu
vực cầu Khánh Khê trên đường 18, chiến sĩ đoàn Tây Sơn đã kiên cường chặn đứng
một sư đoàn quân và một tiểu đoàn xe tăng Trung Quốc.
Ở hướng Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của Trung Quốc
hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông đánh xuống
và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên nhằm hợp điểm ở thị xã Cao
Bằng.
Cả hai cánh quân đều bị bộ đội địa phương và dân quân Cao
Bằng đánh chặn. Cánh quân tây bắc dựa vào sức đột phá của xe tăng bị chặn tại
Hòa An. Cánh quân đông bắc cũng bị đánh quyết liệt ở Thạch An và Quy Thuận, bị
chặn đứng trên đường số 4. Mũi đánh vào Trà Lĩnh, Phục Hòa gồm 2 sư đoàn nhằm
chiếm đèo Mã Phục, Khâu Chia cũng bị lực lượng vũ trang địa phương phản kích xé
tan đội hình, bỏ chạy về bên kia biên giới.
3 ngày đầu, quân Trung Quốc tại Cao Bằng đã bị thiệt hại 4
tiểu đoàn, bị phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và buộc phải đưa lực lượng
dự bị vào vòng chiến. Trên trận địa phòng ngự tại đồi Khâu Chia, các lực lượng
của Việt Nam đã chặn đứng một sư đoàn Trung Quốc trong 12 ngày, diệt hơn 4.000
lính. Ngày 12/3, quân Trung Quốc tháo chạy.
Trên tuyến Hoàng Liên Sơn, mờ sáng 17/2, các sư đoàn tuyến 1
của hai quân đoàn Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới Hoàng Liên Sơn từ
phía tây bắc đến đông bắc thị xã Lào Cai. Cùng với việc đánh nhiều mũi vào các
huyện Bát Xát, Mường Khương, bắn pháo dữ dội vào thị xã, quân Trung Quốc đồng
thời bắc cầu qua sông Nậm Thi, cho xe tăng và bộ binh tiến vào thị xã Lao Cai
và khu vực Bản Phiệt. Dân quân, tự vệ thị xã cùng các lực lượng vũ trang ở đây
đánh trả quyết liệt. Sau 7 ngày, hai quân đoàn Trung Quốc không qua nổi trận
địa đánh chặn, phục kích của quân và dân Hoàng Liên Sơn.
Trên các hướng Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, cùng một lúc
quân Trung Quốc chia các hướng đánh vào nhiều điểm. Hai sư đoàn Trung Quốc tiến
công theo đường 10 vào Nậm Cúm, Phong Thổ (Lai Châu) và đụng độ với lực lượng
vũ trang địa phương. Qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ.
Ở Hà Tuyên, một sư đoàn Trung Quốc tấn công vào các đồn chốt
biên phòng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của công an vũ trang, dân quân,
bộ đội các huyện Đồng Văn, Thanh Thủy, Mèo Vạc và đồng bào các dân tộc. Hơn
1.000 lính Trung Quốc thiệt mạng.
Tại Quảng Ninh, Trung Quốc dùng hai sư đoàn bộ binh tiến
công vào Pò Hèn, Móng Cái, Cao Ba Lanh, huyện Bình Liêu. Trong hai ngày 19 và
20/2, hai trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui, tháo chạy sát về biên giới.
Hàng vạn thanh niên Việt Nam mới 18, đôi mươi đã nằm lại nơi
biên giới phía Bắc trong cuộc chiến bất ngờ chống lại quân xâm lược Trung Quốc.
Ảnh tư liệu.
Trung Quốc rút quân
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động
viên toàn quốc. Cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố "hoàn thành mục tiêu chiến
tranh" và rút quân. Các nhà quan sát lúc đó cho rằng rút lui là hành động
rất khó, có thể gây cho Trung Quốc nhiều tổn thất nếu bị quân tinh nhuệ Việt
Nam phản công.
Ngày 7/3, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt Nam tuyên bố cho
phép Trung Quốc rút quân. 18/3, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân.
Trải qua 30 ngày chiến đấu ác liệt, các lực lượng vũ trang
tại chỗ và đồng bào dân tộc 6 tỉnh biên giới Việt Nam đã dựa vào thế trận chiến
tranh nhân dân, lấy ít địch nhiều đánh bại "chiến thuật biển người, thọc
sâu phá hoại" của quân Trung Quốc.
Theo số liệu công bố, trong hành động quân sự mưu toan phá
hoại, 62.500 lính Trung Quốc (hơn 1/10 tổng số được huy động) bị hạ, 3 trung
đoàn, 18 tiểu đoàn bị tiêu diệt, thiệt hại; 550 xe quân sự trong đó có 220 xe tăng,
xe bọc thép (hơn một nửa số tham chiến) bị bắn cháy, 115 đại bác và súng cối
hạng nặng bị phá hủy…Giới phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài
học, Trung Quốc đã học được bài học quân sự đắt giá của chính mình.
Tuy nhiên, cuộc xâm chiếm của Trung Quốc cũng gây ra những
tổn thất nặng nề cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam
Đường bị hủy diệt hoàn toàn,hàng chục nghìn người thiệt mạng trong đó có nhiều
phụ nữ và trẻ nhỏ. Hiện vẫn chưa có số liệu thống nhất về số thương vong từ
phía Việt Nam (thông tin này Tòa soạn bổ sung sau khi có thắc mắc của độc giả
về số liệu những người dân, chiến sĩ Việt Nam bị thiệt mạng); 400.000 gia súc
bị giết và bị cướp; hàng chục nghìn ha hoa màu bị tàn phá. Khoảng một nửa trong
số 3,5 triệu dân các tỉnh biên giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài sản.
Từ 18/3/1979 đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã không rút hết
quân như tuyên bố. Suốt gần 10 năm đó, chiến sự vẫn tiếp diễn, cao điểm nhất là
năm 1984-1985. Nhiều đơn vị quân đội của Trung Quốc đã được luân chuyển tới
biên giới, biến Việt Nam thành thao trường.
Việt Nam vì thế buộc phải thường xuyên duy trì một lực lượng
quân sự lớn dọc biên giới. Tình trạng chiến tranh khiến kinh tế Việt Nam thiệt
hại nặng nề.
Năm 1992, Việt Nam, Trung Quốc bình thường hóa quan hệ. Cuộc
chiến biên giới phía bắc, vì nhiều lý do, trong suốt một thời gian dài đã ít
được công bố.
Hoàng Thùy - Nguyễn Hưng
http://m.vnexpress.net/thoisu/35-nam-cuoc-chien-bien-gioi-phia-bac/2950346/p0
Đặng Tiểu Bình trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Trong chuyến công du các quốc
gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu
Bình tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”. Câu “Việt
Nam là côn đồ” được các đài truyền hình Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh
Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự
truyền hình đó “Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo
đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên
dịch sang tiếng Anh là “hooligan” – tức du côn, côn đồ.”
Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu “lỗ mãng” đó?
Đảng CS Trung Quốc hy sinh quá nhiều cho đảng CSVN. Không
nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc
chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu.
Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An
Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân
Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn
năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can
thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm
các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công
binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng
không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường
xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi
thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968,
Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320
ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.
Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc giai đoạn
1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng
và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong
trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN,
biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy
sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng
gạo trắng của Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của
Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm
không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một
nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4, 1965,
chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực
tiếp tham chiến.
Xung đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều
Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng Trung Quốc, các đụng độ quân sự
trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng đáng
kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số
lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do
chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có
thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông
Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang
Cambodia và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ
ngã Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm
Trung Quốc khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.
Đánh Việt Nam để củng cố quyền lực
Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với
chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó
Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên,
tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong
vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông
Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó
Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội
bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng. Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau
chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ
ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng
kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược
của Trung Quốc trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh
giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.
Nỗi sợ bị bao vây
Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ cá lý
do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy
ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các
thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng
CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung
Quốc (On China) vừa xuất bản, đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn
Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Quốc của họ Phạm vào năm 1968.
Chu Ân Lai: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô
bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại:
“Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ
Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Phạm
Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại
châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy”. Chu Ân Lai đồng ý: “Các
đồng chí nghĩ thế là đúng ”.
Chính sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ
quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như “một đe dọa
đối với hòa bình”. Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị
và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu
Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một
thực tế đầy nguy hiểm.
Cambodia, giọt nước tràn ly
Không những Trung Quốc sợ bao vây từ phía nam, vùng biên
giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và
ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng
Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi
một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở
rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS
Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng.
Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng
bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y
vào tháng Ba, 1976. Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và
tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều
khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia
đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN.
Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích
bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Đặng Tiểu Bình chọn
phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.
Quyết định của Đặng Tiểu Bình
Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẽ trong
nội bộ Bộ Chính Trị, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định
của Đặng Tiểu Bình.
Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu Bình
chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam. Các thành
viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn,
Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai
binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ ngã Mengla và Vân Nam qua đường
Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu Bình cử
Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí,
đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.
Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu
óc thực tiễn như Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong
điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt
Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị
CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông
Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ.
Lên đường thuyết khách tìm đồng minh
Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến
công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để
vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam.
Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái
Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng
luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho
hòa bình và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8
tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc…
mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm
bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung
Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và
Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới
bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc
gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án
Việt Nam.
Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ
đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương
Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung
Quốc thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường hóa ngoại giao. Đầu tháng 12,
Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có
thể thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào đầu năm Dương Lịch 1979.
Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc
Văn Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978.
Trong các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán
võ khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì
Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xăm lăng Việt Nam.
Chính thức viếng thăm Hoa Kỳ
Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính
thức viếng thăm Mỹ. Y nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc đang tiến tới một đồng minh
chiến lược chống Sô Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không có gì chắc chắn Mỹ
sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới. Trong thời gian ở Mỹ,
Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ trong vài giờ sau khi hạ
cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để
thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên. Chiều
ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng
Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT
Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn
An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ
biết Trung Quốc đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách
tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của Đặng Tiểu
Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng nên “tự chế
khi đương đầu với tình trạng khó khăn”.
Ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình nhận lá thư viết tay của TT
Carter, trong đó ông có ý cản ngăn họ Đặng vì theo TT Carter dù Trung Quốc có
đánh Việt Nam, Việt Nam cũng không rút quân khỏi Cambodia mà còn làm Trung Quốc
sa lầy. TT Carter cũng nhắc việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực
của Trung Quốc cổ võ cho một viễn ảnh hòa bình trên thế giới.
TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping
Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch: “Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi
một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bàu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện
diện. Tôi đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận
của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã
nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội
Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như
thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm
trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc
ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn
đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng
phạt.”
Ngày 30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT Carter,
Đặng Tiểu Bình cho biết việc đánh Việt Nam đã được quyết định và sẽ không có gì
làm thay đổi. Tuy nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy ra trong
vòng giới hạn.
Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của
Mỹ để đánh Việt Nam nhưng ít ra không phải về tay trắng. Tổng thống Carter để
lấy lòng “khách hàng khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên Xô” đã đồng
ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng
biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên
giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết
ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi
họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung
Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”. Chuyến viếng thăm Mỹ là một thành công. Dù
Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án Trung Quốc xâm
lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ
của Nhật.
Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979
Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục
tiêu của cuộc tấn công Việt Nam. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua
khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt
Nam. Nhiều tài liệu Việt, Hoa và quốc tế đã phân tích về chiến tranh biên giới
Việt Trung 1979.
Lãnh đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Quốc tràn qua biên
giới?
Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối
nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã bị CSTQ
tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng
không nỡ lòng đem quân đánh đàn em CSVN. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại
Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách
ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung
Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.”
Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ
Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn
đang viếng thăm Campuchia. Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ
ạt của Trung Quốc và cũng không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính
của quân Trung Quốc. Tác giả Xiaoming Zhang viết trong Tái đánh giá cuộc chiến
Trung Việt 1979 “Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung
Quốc xâm lăng” và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu hiệu
chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin “nước xã hội chủ nghĩa anh
em” có thể đánh họ.
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả
nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam
vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các
nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn
chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã
hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân
đội Trung Quốc học bài học gì dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese
Army đã mô tả quân Trung Quốc chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều Tiên
mấy chục năm trước.
Nếu ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù
quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên
Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị
trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh đến
người lính cuối cùng.
Bài học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979
Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa
nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc đối với Việt Nam từ
chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung
Quốc bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về
chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an
ninh châu Á của Trung Quốc và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển
Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Đặng Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẵn
sàng dùng bất cứ phương tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa
bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu
(preemptive policy).
Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với Tổng thống
Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt
ngón tay đó đi”. Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở
châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger
giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China)
của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ
đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung
Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để
phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và
“ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng
NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ
biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định
trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay
“Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy
tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á
hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát cho bộ
máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan,
chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.
Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế
giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có
trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị
nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn
hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy
vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng.
Lịch sử đã chứng minh, Trung Quốc giàu mạnh nhưng không phải
là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính
mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự
thật và sống vì tương lai của các thế hệ con cháu mai sau.
Trần Trung Đạo
danlambaovn.blogspot.com
______________________________
Tham khảo:
- Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with
Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010
- China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming
Zhang
- Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York
2011
- Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press,
2001
- Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
- Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May
16 1989
- Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army:
“Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
- Wikipedia Đặng Tiểu Bình
- Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
- Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February
2009
- A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259
, Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007)
- Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến
tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch
- “Côn đồ” Đặng Tiểu Bình trong quan hệ Việt-Trung-Miên,
Trần Trung Đạo
- Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo
Biếm họa Kuoc Kuoc (Danlambao)
No comments:
Post a Comment