GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ, HÀN MẶC TỬ - KIM CÚC

Sự thật của mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử

10:36 | 03/01/2013
NGUYỄN ĐÌNH NIÊN
       
100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử

Theo những tài liệu hiện có và theo sự dò hỏi của chúng tôi, từ các thân hữu còn sống của thi sĩ, những người đàn bà thi sĩ đã kinh qua cuộc đời Hàn Mạc Tử, đó là: Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình và Thương Thương.

 Sự thật của mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử

Hoàng Thị Kim Cúc thời trẻ - Ảnh: internet

Hoàng Cúc tức Hoàng Thị Kim Cúc là một thiếu nữ ở cùng đường - đường Khải Định, Qui Nhơn - được Hàn Mạc Tử yêu, khi thi sĩ còn là “một chàng trai khí huyết” chưa mắc bệnh nan y. Mai Đình, người đàn bà trôi nổi xấu số, chỉ chiếm được tình cảm thương, chứ không từng được yêu(1). Rốt cuộc, có thể nói trong khoảng đời bệnh hoạn của Hàn Mạc Tử, thi sĩ có hai mối tình lớn, hai mối tình gây thất vọng cho người thơ: đó là tình Mộng Cầm và tình Thương Thương. Tình ái là phạm vi bí mật nhất, u ẩn nhất của một đời người. Bởi vì, đó là Tuyệt Đối. Bởi vì trước nhan Người Yêu, cũng như trước nhan Thiên Chúa, người tình chỉ có một mình đối diện - bằng tất cả sâu thẳm của một hiện hữu im lặng và bí mật. Tình ái là một cuộc yêu dấu, trong đó chỉ có tay đôi, không có và không thể là tay ba. Cho nên, thiết tưởng ta chỉ nên xem những lời chứng của các chứng nhân - tức là những người thứ ba - đối với cuộc tình người, cuộc tình thi sĩ, như là những giai thoại, những mẩu chuyện nên thơ, những huyền thoại ở cái mặt ngoài sáng sủa nhất, rõ ràng nhất của chúng. Bởi vì, tình yêu không phải được phô bày ra bên ngoài ở mặt sáng sủa rõ ràng nhất của nó, mà tình yêu bao giờ cũng được nhìn từ nỗi niềm u ẩn bên trong, bởi tất cả những gì con tim đã âm thầm chịu đựng(2).



Thủ bút Hoàng Thị Kim Cúc trong thư đề ngày 16/10/1987 gởi Nguyễn Bá Tín - Ảnh: internet

Trong các tác phẩm đề cập đến khía cạnh tình ái của Hàn Mạc Tử, có một khuôn mặt đàn bà - một khuôn mặt thiếu nữ thì đúng hơn - được nhắc đến dưới mỹ danh là Hoàng Cúc(3) hay cô Cúc(4) hay K.C(5). Người thiếu nữ xuất hiện trong thơ Hàn Mạc Tử ấy chính là một thiếu nữ có thực ngoài đời, tên thật là Hoàng Thị Kim Cúc(6) sinh trưởng ở một thôn xóm xinh đẹp vào bậc nhất của Đế Đô Huế, hiện vẫn còn sống độc thân cho đến ngày nay (1970).

Chúng tôi đã tìm đến Cô Hoàng Thị Kim Cúc, để xin được tiếp xúc hỏi chuyện với người chứng trong cuộc tình Hàn Mạc Tử. Với muôn vàn ngại ngùng, và bằng những nghi lễ trang trọng nhất được dành cho một cuộc công bố chuyện tâm tình của hơn ba mươi năm về trước, Cô Hoàng Thị Kim Cúc đã trả lời chúng tôi. Trước khi vào hẳn câu chuyện, Cô Hoàng Thị Kim Cúc đã trình bày ba lý do chính khiến cô im lặng, từ chối những cuộc phỏng vấn của nhiều người từ trước đến nay(7). Lý do thứ nhất, lời Cô Kim Cúc, vì đây là một chuyện tâm tình riêng tư, đương sự muốn giữ lấy cho mình, không muốn một ai được biết. Lý do thứ hai, bây giờ Hàn Mạc Tử đã khuất, Hoàng Tùng Ngâm đã xa(8), đương sự có nói sự thực cũng chẳng có ai chứng minh cho. Lý do thứ ba đương sự có ngại ngùng rằng: công bố trên mặt báo chương, nhiều người sẽ không hiểu, sẽ cho rằng mình bám víu vào cái hào quang của một thi sĩ, để tự đề cao mình. Nhưng - vẫn theo lời Cô Kim Cúc - bây giờ chính là lúc đương sự không thể im lặng, bởi vì người ta đã căn cứ vào những giòng chữ ngắn ngủi, ít ỏi, bằng chữ in, để rồi từ đó, người ta xuyên tạc, làm sai với sự thực quá nhiều(9).

Từ trước tới nay, trong các sách báo biên khảo về Hàn Mạc Tử, các tác giả gặp nhau ở một điểm là đều nhìn nhận rằng mối tình HOÀNG CÚC là mối tình đầu của thi sĩ GÁI QUÊ. Thi sĩ hầu như không còn có một mối liên lạc nào nữa đối với Hoàng Cúc sau khi gặp gỡ và thất vọng vì Mộng Cầm, trong khi bệnh phung bộc phát, rồi gặp Mai Đình, rồi say mơ hình bóng mộng Thương Thương…

Quách Tấn, trong bài Đôi nét về Hàn Mạc Tử, đã viết về Hoàng Cúc như sau:

“Chắc cũng có bạn muốn biết:

- Mối tình Mộng Cầm có phải mối tình đầu của Tử?

- Thưa không.

Khi Tử làm sở Đạc điền Quy Nhơn, Tử có yêu một thiếu nữ ở cùng một con đường - đường Khải Định - biệt hiệu là Hoàng Cúc.

Mối tình giữa một anh chàng đôi mươi và một cô nàng mười lăm mười bảy, lẽ tất nhiên là trong đẹp, nên thơ.

Nhưng thường được gần gũi người yêu, thì tâm trạng của Kim lang đêm trăng nơi vườn Thúy, không còn là tâm trạng của chàng trai đời Gia Tĩnh triều Thanh, mà là tâm trạng chung của nòi tình muôn thuở. Cho nên đối với Hoàng Cúc đã có lần Tử muốn gác lễ nghĩa một bên.

Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường
Không dám sờ tay sợ lấm hương
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương.

Chân tướng của Tử đã hiển hiện rõ rệt trong bài thơ này. Tình của Tử đối với Hoàng Cúc đâu phải không đượm đà, đâu phải không bồng bột. Tử chỉ giữ gìn đó thôi, dè dặt đó thôi.

Tử gìn giữ cho tình yêu trong trắng.
Tử dè dặt vì nền nếp Nho gia.

Và dè dặt gìn giữ để được thấy dưới bóng đuốc hoa cái gì cao quý nhất của người thục nữ: Tử muốn đưa tình yêu vụng lén đến cuộc hôn nhân.

Nhưng hôn sự bất thành!

Bất thành không phải vì Tử gặp cảnh rủi ro của chàng Kim Trọng. Bất thành vì vấp phải trường hợp của Tản Đà khi nhờ người giạm hỏi Đỗ thị. Nghĩa là thân sinh của Hoàng Cúc - lúc bấy giờ làm tham tá sở Đạc điền mà Tử là tùy thuộc - chê Tử không xứng mặt đông sàng!

Tử thôi làm việc ở sở Đạc điền Qui Nhơn để vào Sài Gòn làm báo - chính vì bị chê không có địa vị cao sang. Ghé vào Nha Trang thăm tôi, khi đi Sài Gòn, Tử nói:

- “Đi chuyến này, tôi quyết xây sự nghiệp văn chương cho thật vững vàng, thử xem người ta có còn dám khi dễ”.

Nhưng theo lời Cô Hoàng Thị Kim Cúc trình bày với chúng tôi, thì câu chuyện không có xảy ra đến như thế.

Không phải “hôn sự bất thành” bởi vì Hàn Mạc Tử gặp phải tình cảnh “của Tản Đà khi nhờ người giạm hỏi Đỗ thị. Nghĩa là thân sinh của Hoàng Cúc - lúc bấy giờ làm tham tá sở Đạc điền mà Tử là tùy thuộc - chê Tử không xứng mặt đông sàng”(10) như Quách Tấn đã viết. Mà “hôn sự bất thành” vì một lý do đơn giản hơn: mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử chỉ là một mối tình im lặng. Hàn Mạc Tử không hề ngỏ một lời nào với Kim Cúc. Thi sĩ cũng không hề nhờ băng nhân đến nhà giạm hỏi. Gia đình Kim Cúc lại là một gia đình lễ giáo: thân phụ của Kim Cúc là cụ Hoàng Phùng, đỗ Tú Tài Hán học kiêm cả Tây học, làm Thương Tá Sở Địa Chính tại Qui Nhơn (chứ không phải là tham tá sở Đạc điền như thi sĩ Quách Tấn viết). Hàn Mạc Tử, lúc bấy giờ làm ở Sở Đạc Điền - và thi sĩ không phải là thuộc viên của thân sinh Kim Cúc. Tất cả mối tình Hàn Mạc Tử - Kim Cúc thủy chung xoay quanh “con chim xanh” là Hoàng Tùng Ngâm, vừa là bạn thơ vừa là bạn - chơi của Hàn Mạc Tử.

Từ 1932 - 1936, gia đình Kim Cúc ở tại Qui Nhơn. Hoàng Tùng Ngâm là em chú bác ruột với Kim Cúc và ở chung một nhà với nàng. Một dạo, nhà Kim Cúc ở đường Khải Định, chỉ cách nhà thi sĩ 3-4 căn nhà(11). Tất cả các chuyến đi chơi xa gần ngoạn cảnh, làm thơ giữa Thi Sĩ và Hoàng Tùng Ngâm - ở tận khuê phòng, cô Kim Cúc đều biết rõ, bởi vì đã có Hoàng Tùng Ngâm về tường thuật rõ ràng.

Năm 1936, khi xuất bản GÁI QUÊ, Hàn Mạc Tử có ngỏ ý với Hoàng Tùng Ngâm rằng sẽ cho in lời ĐỀ TẶNG KIM CÚC ở trang đầu tập thơ. Hoàng Tùng Ngâm thuật lại ý định ấy cho chị nghe. Kim Cúc tỏ thái độ không bằng lòng sự đề tặng lộ liễu ấy, nên thi sĩ đã hủy bỏ ý định.

Sau khi in tập GÁI QUÊ xong, tháng 10/1936, ở Huế có mở Hội Chợ - lúc bấy giờ Hàn Mạc Tử đã thôi làm Sở Đạc Điền - thi sĩ có về Huế thăm Huế cùng dự hội chợ. Thi sĩ mang theo những tập GÁI QUÊ, nhưng thi sĩ không tặng cho Kim Cúc tập thơ nào hết(12), trong khi đó các anh em ruột của Kim Cúc - vốn có biết làm thơ, vừa là bạn của thi sĩ - đều được thi sĩ tặng mỗi người một tập thơ vừa mới ráo mực nhà in. Thi sĩ có biết rõ ngôi nhà xinh xắn trong khu vườn yên tĩnh ở thôn Vĩ Dạ của Kim Cúc, nhưng thi sĩ lại giữ ý:

Anh thương em không dám vô nhà
Đi quanh cửa ngõ
như một chàng trai chất phác trong ca dao theo dõi cô “gái quê” xinh đẹp của lòng mình.

Trong lần về Huế này, thi sĩ có xin phép được diện kiến Kim Cúc, nhưng cô thiếu nữ của kinh đô Huế ấy đã từ chối, không cho thi sĩ gặp mặt. Từ sự kiện đó - vẫn theo lời Cô Hoàng Thị Kim Cúc - thi nhân đã viết những dòng thơ sau:

Trăng dầu sáng, còn thua đôi mắt ngọc
Trời tuy xa, lòng thiếu nữ xa hơn
Ái ân là hơi thở của van lơn,
Và thú thiệt cũng chưa thích bằng khóc(13)

Sau lần ở Huế trở lại Qui Nhơn, thi sĩ mắc phải khổ hình bệnh phung. Kim Cúc không hề hay biết tai họa ấy đã giáng xuống đời một nhà thơ. Bởi vì, suốt trong đời sống, Hàn Mạc Tử không hề gởi thư, không từng viết một dòng chữ nào trực tiếp gởi cho Kim Cúc.

Tháng 7/1939, tập thơ Đường luật MỘT TẤM LÒNG của Quách Tấn ra đời. Hàn Mạc Tử đã đề BẠT cho tập này (từ trang 89 - 93). Kim Cúc (ở Huế) không từng quen biết Thi sĩ QUÁCH TẤN ở Nha Trang(14) thế mà, Hàn Mạc Tử đã yêu cầu Quách Tấn gởi ra tặng Kim Cúc một tập MỘT TẤM LÒNG, với dòng chữ “Kính tặng Cô Hoàng Thị Kim Cúc”, Quách Tấn viết và ký tặng.

Tháng 12/1939, tập TINH HUYẾT của Bích Khê ra đời, Hàn Mạc Tử đề TỰA (từ trang V - XIX). Kim Cúc cũng không hề quen biết Thi sĩ Bích Khê, lúc bấy giờ đương nằm bệnh ở Thu Xá, Quảng Ngãi, Hàn Mạc Tử đã yêu cầu Bích Khê gởi ra Huế tặng Kim Cúc một tập TINH HUYẾT với lời đề tặng đáng lưu ý hơn:

“Tăng Chị Hoàng thị Kim Cúc, người bạn của Anh Hàn Mạc Tử - Bích Khê”. Khi nhận được tập này, Kim Cúc đã nhắn Hoàng Tùng Ngâm gởi lại thi sĩ một lời phiền trách.

Cũng năm 1939 - lúc bấy giờ Kim Cúc đương làm giám thị, xem sóc học sinh nội trú ở trường Đồng Khánh Huế - Kim Cúc mới hay biết thi sĩ bị mắc bệnh phung. Mãi đến năm này, Hoàng Tùng Ngâm mới chịu cho Kim Cúc rõ điều đó. Hoàng Tùng Ngâm không quên kể lể với Kim Cúc, đại ý: “TRÍ vẫn không quên chị. Trong khi người ta bệnh hoạn, quá chừng đau khổ, chị cũng nên an ủi”(15).

Cái gì đã gợi ra trong con tim thâm nghiêm của một thiếu nữ khi đột ngột hay tin cái - người - yêu - mình trong bao năm đang bị mắc chứng phung hủi? Người ta có thể - theo ý chủ quan của chúng tôi - tha thứ với bệnh lao vốn là dấu ấn của người trí thức (!). Người ta có thể tha thứ với bệnh đau tim là thứ bệnh của một kiếp phù dung rực rỡ hồng đào trong khoảng khắc để rồi chóng vánh rủ xuống. Nhưng, có ai trên đời này chịu tha thứ cho bệnh phung, một thứ hiện hình ghê tởm gớm ghiếc lu lù ở ngay bề mặt?!

Theo lời khuyên của Hoàng Tùng Ngâm, Kim Cúc đã gởi cho thi sĩ một tấm ảnh. Ít lâu sau, Kim Cúc nhận được - do Hoàng Tùng Ngâm trao lại - bài:

Ở ĐÂY THÔN VỸ DẠ (16)

Chính khởi lên từ bài thơ “Ở đây thôn Vỹ dạ” này, bao nhiêu độc giả và bình giả đã say sưa đặt ra vô số giả thuyết xoay chung quanh “tấm ảnh” của một giai nhân gởi cho một thi sĩ. Nào là người trong ảnh mặc áo trắng. Nào là người trong ảnh là một “cô gái Huế” đứng thơ thẩn trong vườn trúc, đợi chờ. Nào là người đẹp thôn Vỹ mời thi nhân “ra chơi Vỹ dạ”, ra viếng núi Ngự sông Hương.

Kỳ thực, trong cảnh sống riêng chiếc, bệnh hoạn, “nằm trong xanh biếc của trời buồn” Qui Nhơn, Bình định, thi sĩ của chúng ta, có ít diễm phúc hơn nhiều.

Không có hình một thiếu nữ nào hết ở trong tấm ảnh Hàn Mạc Tử đã nhận được. Cũng không có một lời mời “ra chơi Vỹ dạ”(17). Bởi vì, theo lời Cô Hoàng Thị Kim Cúc vừa mới trình bày với chúng tôi - sau bao nhiêu năm trời im lặng, giấu kín - là tấm ảnh của Kim Cúc gởi vào Qui Nhơn cho Hàn Mạc Tử chỉ là một tấm hình phong cảnh cỡ 4 x 6. Đó là một tấm ảnh không người - hoặc nếu nhìn theo con mắt thi nhân thì là một tấm ảnh có người, nhưng người đi vắng cũng thế! “Trong tấm ảnh có một chiếc đò, với một khóm tre, và một cái bóng chiếu xuống nước không biết đó là mặt trăng hay mặt trời. Phía sau tấm ảnh là một câu thăm hỏi, chúc mau bình phục, không đề ngày, và không cả ký tên nữa”(18). Tấm ảnh ấy, Kim Cúc gởi Hoàng Tùng Ngâm, lúc bấy giờ vẫn còn làm ở sở Địa Chính Qui Nhơn, nhờ Hoàng Tùng Ngâm trao lại cho thi sĩ (1939). Sau đó Cô Kim Cúc nhận được bài “Ở ĐÂY THÔN VỸ DẠ” do Hoàng Tùng Ngâm chuyển lại.

Nói như Joubert “Hãy nhắm mắt lại, bạn sẽ thấy”(19). Đối với người thường, phải có mắt mới nhìn thấy. Thi sĩ không thế. Thi sĩ không nhìn bằng mắt, mà nhìn bằng tim. Thi sĩ nhìn bằng cái nhìn chí tình của mình, đối với mỗi đối tượng ở trong cuộc đời. Từ cái nhìn thẳm thẳm của tình - lang, từ cái nhìn mộng mơ của thi nhân, từ tiềm lực sáng tạo của nhà nghệ sĩ, Hàn Mạc Tử đã viết cho đời một bài thơ đẹp. Chúng tôi xin được phép chép toàn bài thơ ấy ở đây, để ghi lại như một giai thoại của khách tình chủng thi nhân, để làm chứng tích cho những động cơ vốn tiềm mặc u ẩn trong cõi tâm tư thao thức của mỗi con người sáng tạo:

Ở ĐÂY THÔN VỸ DẠ

Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Dầu sao, chúng ta và cuộc đời, cũng nên cảm ơn cái hảo ý của giai nhân. Giai nhân từ nghìn xưa cho đến giờ vẫn là những kẻ - vô tình hay hữu ý - hằng ban tặng một chút “bóng ảnh” - và rất nhiều ảo ảnh - cho thi nhân, để gợi ý thi nhân là những kẻ cầm chiếc đũa thần kỳ diệu, vạn năng của chữ nghĩa trong giờ phút linh hiển sáng tạo.

Mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử không hẳn là mối tình đầu, như thi sĩ Quách Tấn đã bảo, cũng không hẳn là mối tình có kết thúc - Đó không phải là mối tình bị tan rã do bởi hoàn cảnh gia đình nên “hôn ước bất thành” hay bởi sự ngộ nhận giữa đôi người trong cuộc. Thi sĩ có ước hẹn gì cùng giai nhân đâu. Nhưng, đó cũng không phải là mối tình câm bởi vì, giữa giai nhân và thi sĩ vẫn có một sợi dây hồng quấn quít: Hoàng Tùng Ngâm. Theo thiển ý của chúng tôi, đó chính là một mối tình - một đóa hoa mơn mởn nở ra dưới bóng mát bao dung của sự yên lặng. Đó không phải là một mối tình câm, mà chính là mối duyên nở dần ra trong im lặng như lời thơ:

Lâu rồi không nhớ bao nhiêu năm
Từ độ trông nhau hết lạ lùng
Kín tiếng nhưng lòng riêng xôn xao
Ai thấy phong ba nơi bể hồn!
Một bên thi sĩ bên đa tình
Đôi tim dóng then mà hớ hênh
Chập chờn bến Thực hay nguồn Mơ
Hay chính bâng khuâng là ái tình(20)

Phải chăng là một điều quá đáng, khi chúng tôi dám mạo muội mượn lời thơ Vũ Hoàng Chương để kết thúc ở đây mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử?

N.Đ.N
(Bài viết rút ra từ cuốn "Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử")
(SĐB 7/12-12)


----------------------
(1) Nói theo thói thường. Chứ thực ra, trong lòng người đàn ông, nhất là khi người đó lại là thi nhân, lấy cái gì để làm ranh giới giữa thương - thương hại, thương mến - với yêu - yêu dấu -? Con tim thi sĩ có những ngoắt nghéo, gần giống con tim đàn bà, khó mà các chứng nhân ở bên ngoài có thể hiểu thấu được.
(2) Paul Van Tieghem: “non pas l’amour dépeint de l’extérieur comme par un témoin lucide, mais l’amour vu du dedans, tel que le coeur le subit.”
(Le Romantisme Francais - P.U.F., coll. Que Sais Je?.-số 123 tr.29.
(3) Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mạc Tử, Văn số 73 và 74 tr.91.
(4) Đinh Hùng, Ngày đó có em,- Giao Điểm xuất bản, 1967 tr. 7 và tr. 64.
(5) Trần Thanh Mại, HÀN MẠC TỬ, Tân Việt, tr. 102.
(6) Cô Hoàng Thị Kim Cúc, sinh tháng 12 - 1913 (nhỏ thua Hàn Mạc Tử một tuổi), đỗ Tiểu học năm 1928, ở Qui Nhơn từ 1932 đến 1936, và ở Huế từ 1936 cho đến nay (1971). Từ 1938, Cô Hoàng Thị Kim Cúc làm giám thị trường Đồng Khánh Huế. Hiện nay (1971) Cô là giáo sư nữ công của Trường này.
(7) Trước chúng tôi, đã có nhiều giáo sư, học giả của thành phố Huế đến phỏng vấn Cô Hoàng Thị Kim Cúc.
(8) Ở ngoài Bác. Theo Cô Kim Cúc, năm 1943, Hoàng Tùng Ngâm có định viết sách về Hàn Mạc Tử.
(9) Trên vô tuyến truyền hình, trong các rạp tuồng Cải lương, người ta đã diễn trước mắt khán giả những hình ảnh lố lăng, bội bạc, không có thực, về Hoàng Cúc và song thân của Hoàng Cúc.
(10) Quách Tấn,- bài đã dẫn, tr. 92-93.
(11) Do đó, Hàn Mạc Tử mới viết:
Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường
Không dám sờ tay sợ lâm hương
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương
Theo lời Cô Kim Cúc, 2 - 3 lần gia đình Kim Cúc đổi chỗ ở, thi sĩ cũng đổi nhà theo. Năm 1936, Cụ Hoàng Phùng hồi hưu, Cô Kim Cúc theo song thân và gia đình về Huế, ở tại Vỹ Dạ. Hoàng Tùng Ngâm ở lại Qui Nhơn và vẫn làm sở Địa Chính.
(12) Theo lời Cô Kim Cúc, Hàn Mạc Tử muốn tặng sách, nhưng Cô không muốn, nên thi sĩ không tặng.
(13) Trong bài DẤU TÍCH, tập Mật Đắng (Thơ Điên ĐAU THƯƠNG).
(14) Cho mãi đến nay (1971) Cô Hoàng Thị Kim Cúc và Thi sĩ Quách Tấn vẫn chưa có dịp nói chuyện với nhau. Theo địa chỉ của chúng tôi cho biết, mới đây (12-1970) Cô Hoàng Thị Kim Cúc có viết thư vào Nha Trang cho thi sĩ Quách Tấn và yêu cầu Thi sĩ đính chính ít điểm trong bài “ĐÔI NÉT VỀ HÀN MẠC TỬ” (Báo Văn số 73 và 74 ngày 7-1-1967. Bài này sắp sửa được Quách Tấn cho in thành sách). Chúng tôi không được rõ Thi sĩ Quách Tấn sẽ có phản ứng, thái độ nào, trước lời yêu cầu này.
(15) Thuật theo lời cô Kim Cúc nói với chúng tôi.
(16) Bài thơ Cô Kim Cúc nhận được, thi sĩ ghi là “Ở đây thôn Vỹ Dạ” chứ không phải là “Đây thôn Vỹ Dạ” như chúng ta thấy trong các sách đã xuất bản.
(17) Quách Tấn, bài đã dẫn, tr.94.
(18) Chúng tôi chép lại nguyên văn lời Cô Kim Cúc nói với chúng tôi.
(19) “Fermez les yeux, et vous verrez”.- Les Carnets de Joubert.- Gallimard. Paris, 1938.
(20) Vũ Hoàng Chương.- Yêu mà chẳng biết. Trong “Thơ Say” (1940),- Ta đợi Em từ ba mươi năm,- Tr. 11,- An Tiêm, Saigon, 1970.

trích từ

 http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p2/c16/n11230/Su-that-cua-moi-tinh-Kim-Cuc-Han-Mac-Tu.html
Dải khăn sô cho Huế
Chương 1 :Những giờ đầu tiên


Không biết tiếng súng đầu tiên nổ vào giờ khắc nào? Giữa đêm, tôi đã choàng tỉnh dậy vì tiếng nổ xé toạc cả những giấc mơ vụn.
Vừa kịp lăn xuống khỏi tấm phản gỗ, tai tôi đã ù đi vì những tiếng nổ ran bốn phía. Chuyện gì vậy? Không biết làm thế nào mà tôi lăn tròn từ phòng ngoài vào phòng trong. Bàn tay ai kéo tôi giúi vào giữa phòng. Tôi nằm đè lên da thịt ai non mát. Một tiếng kêu nhỏ tắc nghẽn vào âm thanh hỗn độn của súng đạn bên ngoài. Khi tôi kịp định tỉnh lại tâm thần thì đứa cháu nhỏ đã ngồi lên được, nằm gọn gàng trong lòng tôi. "Còn đứa mô nữa? Vô hết đi. Vô một chỗ.” Tiếng má tôi thì thào. Que diêm tắt phụt nhưng có ánh nến le lói từ phòng ngoài hắt vào. Ðứa em trai tôi trườn theo làn ánh sáng mỏng đó, nó ngồi áp vào bên má tôi. “Làm ơn tắt giùm ngọn nến ngoài bàn thờ đi, tắt luôn cả lư trầm nữa.” Ông anh lớn của tôi vội vã làm theo lời má tôi, rồi nhảy đại rất nhanh vào ngồi dồn cùng một đống. Lúc này tôi mới cảm thấy ngột ngạt đến muốn tắt thở vì hơi người, vì mùi trầm hương và mùi nến khét.
Căn phòng quá chật, lại bị cái giường chiếm mất một nửa. Anh tôi phải lăn xuống gầm giường. Người này nằm gác lên người kia. Cái bô để dưới chân giường, thỉnh thoảng bị va chạm, vang những âm thanh rổn rảng càng khua động thêm nỗi sợ hãi của mọi người.
Nằm im được một lát, hoàn hồn lại, mọi người bắt đầu nghe ngóng. Tôi dán tai xuống nền gạch. Ðứa cháu gái đã lăn xuống nằm cạnh tôi, hai tay nó ôm đầu, hai chân nó lọt vào hai chân tôi. Tôi hỏi nhỏ:
"Tina nằm có chật không?"
"Không, cô ơi. Tina sợ quá."
"Ðừng có khóc.”
Tôi vỗ về đứa cháu. Nhưng cùng lúc đó những tiếng nổ ình ình lại dội thốc lên. Ðứa cháu bỏ tay, ôm chặt lấy tôi, người nó run cầm cập. Trời ơi, súng bắn cả sau vườn mình. Tôi nghe tiếng súng đằng sau vườn thật trong, thật buốt. Thằng em ghé vào tai tôi:
"AK. Thôi, tụi nó về rồi."
Tôi kéo nó:
"Mày nằm xuống đi."
"Không can chi mô chị. Ðể em ngồi."
Cánh cửa sổ bỗng bị bật ra và cứ thế, hai cánh cửa cứ dội mở ra, đóng ập vào theo những tiếng nổ lớn. Tiếng đạn ở sau vườn bắn thật rát. Má tôi thì thầm:
"Ðánh tới đồn vận tải."
"Không, đồn trường bia."
"Không, đánh cùng khắp. Con nghe phía vận tải, phía trường bia, phía ruộng, phía sau đường rầy."
"Suỵt, im đi cho với. Trời ơi. Trời ơi. Trời ơi."
Tiếng trời ơi đất hỡi bỗng nằm ngay trên chót lưỡi. Bầu trời xoẹt lửa sáng trưng, đất rung chuyển như địa chấn. Lên cơn rồi. Tôi cũng không thể nằm yên để nghe tiếng dội tức cả ngực được. Tôi muốn ngồi nhổm dậy để nghe ngóng, nhưng chỗ nằm chật không nhúc nhích được. Ðứa em họ lúc này cũng chen được một chỗ, hai chân nó chuồi dưới giường, đầu nó thò ra khỏi một nửa cửa phòng. Nó lại bật diêm, lại có tiếng la nhỏ: con khỉ, tắt diêm đi. Ngọn diêm tắt phụt. Nhưng trong bóng tối, lúc này tôi tưởng tượng ra được rồi. Tôi đồng điệu run với mạ tôi, anh tôi, em gái tôi. Tôi đồng điệu co quắp, cố đè nén sự run rẩy, cố ưỡn tung lên để tiếng nổ bớt dội ngực. Ðứa em họ tôi nghe ngóng một hồi rồi ngồi dậy, nó bò ra gian nhà ngoài, chúng tôi nín thở chờ đợi. Chỉ một lát sau, nó bò vào nói rỉ tai từng người:
"Nó ở đầy sân vườn nhà mình."
"Suỵt."
Lại nhiều tiếng suỵt lọt ra khỏi cửa miệng như một hơi huýt gió nhỏ.
Anh tôi giọng hơi gay gắt:
"Nó bắn như pháo ở bên ngoài, vài tiếng động nhỏ làm sao nghe được."
Rồi anh tiếp:
"Quái gì, nó về đánh đồn trường bia rồi. Lần trước cũng đánh suốt một đêm, sáng ra là rút hết."
Tôi mừng thầm. Chúng tôi chịu đựng có lẽ đến hai tiếng đồng hồ rồi. Tôi cố đưa cổ tay lên để nhìn mặt chiếc đồng hồ, nhưng rủi cho tôi, tôi mang đồng hồ không có kim dạ quang. Và ngoài tôi ra chẳng có ai kịp thì giờ mang đồng hồ hết. Dù sao chúng tôi cũng hy vọng mong cho trời sáng. Ông anh tôi không biết sao bỗng trở chứng kêu đau bụng bất thình lình. Vậy là chiếc bô lại có dịp được dùng tới. Chúng tôi đau khổ vì lát lát mấy đứa nhỏ đòi đi tiêu, đi tiểu. Lát lát anh tôi lại kêu đau bụng, mà cái bô thì quá nhỏ. Mọi người vừa nằm vừa run, vừa cố giữ cho chân tay khỏi lóng ngóng. Tôi cố nghĩ đến một cái gì để dằn cơn sợ hãi, nhưng không, tôi không nghĩ gì được hết. Ðầu óc tôi vang dội tiếng súng. Tay chân tôi cứ lật bật run rẩy bất chấp cả sự tự chủ vượt bực của tôi. Có nhiều lúc ngay cả chân tay, thân thể mình cũng không nghe lời mình nữa.
Nhưng rồi nhờ sự chịu đựng quen dần, tôi bình tĩnh lại được và cơn run rẩy biến mất. Hình như chúng tôi đã chịu đựng một thời gian khá dài và bình minh sắp đến. Tôi nghe tiếng rục rịch trong chuồng gà ở đàng sau tấm vách tường lọt vào nhờ hai cánh cửa sổ đã bật tung cùng với tiếng súng đạn hỗn loạn. Thái, tên đứa em họ tôi, đã bình tĩnh ngồi dựa vào tường, và phì phà trên môi điếu thuốc lá lúc nào. Tôi lần tay, nắm chặt tay nó:
"Thái, liệu có yên được không?"
"Em làm răng biết được, cái nớ thì chịu..."
Tôi lại hỏi anh tôi, lúc đó đã nằm trên giường vì không chịu nổi sự chen lấn dưới đất:
"Anh, sáng mai chắc yên há anh?”
"Làm răng biết được, anh cũng chịu."
Tôi đâm ra thất vọng ngang. Những ánh lửa xẹt ngang dọc phía ngoài cửa sổ không còn nữa, nhưng hai cánh cửa vẫn còn bị dội bật ra bật vào vì những tiếng nổ lớn. Súng to, súng nhỏ đang nổ ran từ mặt quốc lộ, từ miệt chùa, từ phía sau đường rầy. Căn nhà của chúng tôi nằm đơn lẻ, chịu đựng bốn mặt đang đánh nhau. Quốc lộ và bờ ruộng ở ngay trước mặt, đường rầy xe lửa ở đàng sau lưng. Hai phía hai bên, một xéo với đồn trường bia, một xéo với đồn vận tải An Cựu.
Không thể nằm yên để chờ tới sáng, tôi lại khơi chuyện:
"Sáng ngày yên chắc ra đường dễ sợ lắm!"
Thái phà thuốc trúng ngay vào mặt tôi:
"Buồn quá, lúc này có súng đỡ sợ hơn nhiều. Biết vậy tối qua em lên đơn vị."
"Không biết tới sáng đã yên được chưa?”
Tôi hỏi hoài một câu như người ngớ ngẩn: Biết đâu. Mà yên chứ. Sáng ra mà súng đạn không ngừng thì chết hết.
"Trời ơi, đừng nói, tụi nó trong vườn."
Ðứa em gái của tôi cười nhỏ:
"Má sợ chi mà sợ dữ rứa. Chị Vân, sáng ra chị với em đi thăm trận đánh nghe. Coi chừng về Sài Gòn viết một phóng sự chiến trường đầu năm đầy gay cấn."
"Giỡn chi mà giỡn vô hậu tế đợi rứa. Mấy chuyện đó đừng có ham.”
Má tôi cằn nhằn. Nhưng chúng tôi đã bớt dần cơn sợ hãi, bắt đầu nói chuyện được, mà câu chuyện cũng bớt ngớ ngẩn. Lúc này tiếng súng ở trong vườn đã dịu dần, nhưng xung quanh thì vẫn còn nổ ran. Tôi nằm mà mắt không rời khỏi cánh cửa sổ phía trên đầu đứa em gái. Tôi nằm chờ, cho tới khi bầu trời tối mịt bên ngoài kia bị hút bớt màu đen đặc.
Lúc này tôi cần sự bình tĩnh, cần sức mạnh. Tôi mong cho trời sáng thì trời đã gần sáng rồi. Mấy chiếc lá cây phất phơ bên ngoài cửa sổ đã hiện lờ mờ, rồi rõ dần. Mấy đứa cháu tôi kêu khát nước. Chúng tôi chờ đợi cho tiếng súng bớt ồ ạt, Thái mới đi ra ngoài rót một ly nước cho hai đứa nhỏ. Tiếng súng đã có vẻ thưa hơn, bức màn đêm đã bớt mắc kẹt đạn. Anh tôi hy vọng hơn ai hết:
"Thái, coi yên súng đem xe Honda ra ngoài, anh muốn lên Từ Ðàm. Chắc chị và mấy đứa nhỏ sợ ghê lắm."
Gia đình tôi lúc này đang chia làm hai. Chị dâu tôi và mấy đứa nhỏ còn ở nhà trên đầu dốc Bến Ngự. Nên anh tôi là người lo lắng nhất. Nhưng chắc không sao. Moị người tự an ủi. Ðến sáng là yên, vậy sáng rồi. Môi má tôi đã bớt tím, tay chân bà cũng bớt run rẩy. Nhưng nỗi vui mừng của chúng tôi không được lâu. Ðúng lúc tôi nghe tiếng gà gáy nơi chuồng gà thì tiếng súng đã bắt đầu nổ lại. Rồi có tiếng đấm cửa rầm rầm, cùng nhiều tiếng chân chạy ở ngoài sân:
"Mở cửa, mở cửa."
Thôi chết rồi. Chúng nó đã tới. Chúng nó sắp tràn vào nhà. Má tôi mặt tái xanh, định chạy tới tắt ngọn đèn vừa mới thắp. Tiếng đại bác dưới Phú Bài bắn lên ầm ầm. Tiếng súng nhỏ nổ chát chúa. Cánh cửa muốn bật tung vì những tiếng đập. Thái bò ra giữa nhà.
"Suỵt, để con."
Rồi hắn chạy ra mở toang cửa. Có nhiều tiếng quen thuộc la hét bên ngoài. Cánh cửa vừa mở tung ra, thì cả nhà đầy người. Chú tôi ở phía dưới đường rầy, sát chân núi Tam Thái, cùng gia đình con dâu với những gia đình hàng xóm khác chạy túa vào. Trẻ con người lớn chen chúc chật cả một gian nhà giữa rộng rãi. Mấy đứa nhỏ hoảng sợ quá, ngã vật ra giữa nhà, có đứa vừa run vừa đái ra quần. Chú tôi vừa khóc vừa kể:
"Sập hết rồi chị ơi. Trên đó bị mọt-chê câu, nhà mụ Nghệ bên cạnh đó mất nửa cái nhà."
Bé, đứa con trai lớn của chú tôi ôm một lúc hai đứa con nhỏ, vừa thở vừa nói không ra hơi:
"Tụi nó đông lắm. Trên con đầy nhà rồi bác."
Tôi tò mò:
"Làm sao em chạy xuống được?"
"Dân họ chạy xuống dưới này hết. Trên đó mọt-chê câu sập hết nhà cửa. Chạy giữa đường em thấy Việt cộng tụm năm tụm ba, nó ngồi cả trước sân nhà người ta."
Chú tôi chợt nhìn quanh rồi hốt hoảng:
"Con Hồng đâu rồi, con Hồng bế thằng Ðiện chạy phía nào rồi. Thôi chết con tôi cháu tôi...”
Chú tôi chưa kịp dứt câu thì đã ngã phịch xuống vì một quả B-40 phạt xuống mái ngói. Tôi đang há hốc mồm thì gạch vụn đã đầy một miệng.
Cái bô để dưới chân giường không biết bị ai đá vào tràn ra nhà. Tôi vừa sát người xuống thì đã phát nôn vì một mùi thúi hoắc xông lên tận đầu, nhưng không còn cách cựa quậy gì nữa. Nhiều đứa trẻ không chịu đựng nổi ré khóc vang nhà. Nhưng tiếng khóc bị chận ngay vì những bàn tay đã bịt miệng, hoặc những tràng súng cắt đứt. Trời ơi, đến sáng rồi sao không yên? Tôi quay quắt hỏi đứa em:
"Lần trước có lâu như vầy không?"
"Không, lần trước bắn ít hơn, không có đại bác câu nhiều như thế này. Sáng ra là nó rút đi hết."
Bé bò lại phía tôi:
"Trời, chị không tưởng nổi mô. Em thấy tụi nó máu me cùng mình. Tụi nó ngồi bên vườn thím Quyệt, em chạy xuống đây em thấy."
"Thấy mày chạy họ để yên à?"
"Tụi họ cũng vừa chạy vừa bắn, mình cũng chạy đại. Ở trên đó chắc chết quá chị ơi."
Nó vừa nói vừa ôm chặt đứa con gái trong lòng. Vợ nó khóc thảm thiết:
"Anh coi đi tìm con Hồng với thằng cu Ðiện, không tui chạy ra cho súng bắn cái đùng cho rồi."
Má tôi gắt:
"Chết đến nơi không lo, ai mượn tụi bây không chạy với nhau."
"Làm răng chạy với nhau được, mạnh ai nấy chạy, tưởng còn sống đến chừ mô."
Hai vợ chồng nó nín im, nhưng chỉ một giây sau, tôi lại nghe chúng càu nhàu cãi cọ. Một lát sau tiếng súng lại thưa dần. Bé vội chạy ra sân rồi mò dần ra đường. Chừng hai mươi phút sau nó trở lại, một tay bế thằng con.
"Chị...”
Bé hạ giọng, tiếp:
“Em đi tìm con Hồng với thằng Cu, em phải đi bằng ngả sau vườn. Ngang đường rầy em gặp tụi nó, nó hỏi em đi mô rồi bắt giữ em lại. Chúng nó có ba đứa, một đứa bị thương. Em năn nỉ nói đi tìm con lạc, ban đầu nhất định nó không cho, nó hỏi em làm nghề gì. Em nói thợ mộc, em bị lạc con. Về sau nó cho đi. Em tính nếu nó bắt, em liều chết giựt súng. Một thằng bị thương gần chết, một thằng bị thương nhẹ không cầm súng được, còn thằng kia ốm yếu hơn em..."
Hà, em gái tôi, nạt:
“Thôi, mi đừng có ba hoa, nói phách tấu...”
“Em nói thiệt, người ta quân đội mà...”
Rồi nó sực nhớ lại đồn trại và đồng đội, nó ngồi buồn hiu. Lát sau thở dài:
“Lính tráng mà ngồi một xó như ri có nhục không?”
Những người xóm trên vào nhà tôi bây giờ mới hoàn hồn lại. Người vạch vú cho con bú, người bắt đầu kháo chuyện. Mỗi người kể một chuyện đại để cũng thấy Việt cộng ra sao. Họ kể họ cũng chạy suýt chết, cũng thấy viên đạn nó to và đỏ rực như đâm vào mặt mà không biết sao lại không trúng.
Bỗng nhiên vào lúc 8 giờ sáng, tiếng súng như dồn về miệt Phú Cam. Tiếng đại bác dưới Phú Bài không câu lên nữa. Lúc đó chúng tôi mới lần ra sân. Vườn cây yên tĩnh không một bóng người, nhưng trên cỏ, trên đất, còn lấm tấm những vạt máu khô đặc.
Một vài nhánh cây gãy, nơi bờ tre cuối đường ngả ăn thông ra mặt đường rầy, những cành khô được banh ra, chừa những lối đi gọn. Mấy chị em chúng tôi hết sức sung sướng hít thở, ai cũng mừng thầm như thế này là đã yên. Anh tôi chuẩn bị để lên nhà ở Từ Ðàm. Tôi ra cái bể cạn trước sân múc nước súc miệng, đánh răng. Những người trú ngụ trong nhà tôi vội vã bồng bế nhau trở về xóm. Chú tôi là người chạy băng ra khỏi nhà trước tiên. Ông quá lo lắng không biết nhà cửa còn hay đã mất. Tôi cố nhón gót nhìn lên miệt núi, cũng không thấy được gì. Thái, em tôi, hỏi:
“Chị nhìn chi rứa?”
Tôi thở ra:
“Chắc đêm qua trên núi mồ mả bị chân đạp lung tung, mộ bác mới chôn.”
Mồ mả mới chôn đây là mộ của ba tôi. Từ Sài Gòn, những ngày cuối năm vợ chồng con cái tôi đang chuẩn bị đầu năm về ăn Tết ở Huế thì tin ba tôi hấp hối. Leo lên một chiếc máy bay quân sự chở thực phẩm cho lính ở tiền đồn, tôi về tới vừa kịp những giờ cuối cùng của người cha.
Thái cúi đầu. Nó đi tới bể cạn múc nước. Tiếng má tôi kêu:
“Thái, con đem cái này đổ ra sau vườn.”
Anh Lễ tôi đã mặc quần áo xong. Chiếc Honda đã được dựng sẵn. Tôi nói:
“Cho em lên Từ Ðàm với.”
Anh Lễ bảo:
“Ðể coi sao đã. Thấy không yên rồi, ngoài đường vắng tanh vắng ngắt.”
Nhưng lời anh tôi nói chưa dứt thì có nhiều tiếng động ì ầm của xe chạy vào thành phố ngả quốc lộ. Chúng tôi đứng ở sân nhìn ra. Một đoàn xe cam nhông chở lính Mỹ và những khẩu đại bác đang từ từ đỗ lại ngoài đường nối hàng dài. Lính Mỹ nhảy xuống, Thái bật la to:
“Bác ơi, yên rồi, quân Mỹ đã lên. Mình ra đường, mình coi được rồi.”
Má tôi kêu:
“Vào nhà hết, vào nhà không nó bắn.”
Anh tôi cản:
“Ðứa nào ở đâu cứ ở đó. Ðứng yên đừng có chạy mà nó tưởng Việt cộng chết hết cả giờ.”
Ðoàn lính Mỹ đã xuống xe, tiến vào các khu vườn, nằm bò xuống vệ đường, lủi xuống phía ruộng. Chỉ một phút sau vườn nhà tôi đã đầy lính Mỹ.
Một vài người lính Mỹ nhìn chúng tôi dò chừng rồi lủi ra phía vườn gườm súng chĩa vào các bụi cây trước khi băng qua vườn khác. Không có gì xảy ra hết. Tình hình hoàn toàn yên tĩnh. Chúng tôi đi vào nhà ngồi yên ở tấm ngựa gỗ. Ra đường lúc này nguy hiểm. Ai cũng nghĩ thế. Có lẽ lính Mỹ đang đi lùng Việt cộng đây. Chúng tôi im lặng ngồi nhìn nhau, hồi hộp chờ đợi. Hai người lính Mỹ đi ngang qua sân, hờm súng vào trong nhà. Chúng tôi cố giữ vẻ mặt thật thản nhiên. Má tôi còn có vẻ cố gắng làm ra vui mừng nữa. Hai người lính Mỹ dừng lại, rồi đưa mắt cho nhau, đi vào bậc thềm, hất hàm ra hiệu cho chúng tôi ra đứng ở cửa hết. Một người lính Mỹ nói hai tiếng gì đó không phải tiếng Mỹ.
Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, người lính Mỹ lộ vẻ tức giận, nạt lớn:
“Kên cượt.”
Anh tôi hỏi một câu tiếng Anh, nhưng người Mỹ vẫn la:
“Kên cượt.”
Má tôi là người hiểu ra đầu tiên, bà nói lớn:
“Ông Mỹ hỏi thẻ căn cước.”
Người lính Mỹ gật đầu. Người đi cùng chỉ súng thẳng vào người chúng tôi. Chúng tôi trình thẻ căn cước. Khi tôi đưa tấm thẻ của cơ quan VOF (Voice of Freedom) thì người lính Mỹ gật đầu và khuyên chúng tôi trong lúc này nên ở yên trong nhà. Trả thẻ lại, một người trọ trẹ nói tiếng Việt cám ơn, rồi đi ra phía vườn. Chúng tôi chưa kịp ngồi xuống tấm ngựa gỗ đã nghe mấy tiếng nổ lớn. Thái quen với súng đạn, kêu lên:
“Thôi, B-40 của Việt cộng rồi.”
Tiếng B-40 từ phía núi, từ phía đường rầy bắn ra như mưa. Phía ngoài đường, những xe thiết giáp mang súng cối 40 ly bắn trả lại kịch liệt. Từng mảnh ngói bị sức ép, hoặc trúng sướt lằn đạn rơi tứ tung lên đầu lên cổ. Cả nhà lại chui vào phòng trong. Cùng lúc đó những tiếng la khác nổi lên như ri ở miệt ngoài đường. Cái gì vậy? Thái muốn chạy ra trước tiên. Má tôi nắm áo giữ riệt nó lại, nhưng Thái cứ van nài mãi. Cuối cùng hắn ló ra cửa, thụt lui thụt tới vì những tiếng súng bắn đi trả lại cứ vèo vèo ngang qua mái nhà. Ầm. Ầm. Vài thân cây lớn ở ngoài vườn đổ xuống. Chúng tôi ai nấy nằm sát xuống đất, buông trôi cho sự may rủi. Lần này chắc chết quá. Cầu nguyện đi. Tiếng la khóc ở vườn bên, ở trước mặt càng lúc càng thảm thiết. Rồi tiếng kêu chết kêu cháy vang lên.
Mấy người lính Mỹ đang núp ở vườn sau vội chạy ra đường phía có tiếng kêu khóc. Lúc này đạn bắn đi cứ như mưa, tiếng B-40 yếu dần rồi tắt luôn. Tiếng kêu khóc đã nghe rõ mồn một. Chúng tôi không ai bảo ai cùng một lượt chạy ra sân. Căn vườn mé mặt trước, đang có căn nhà bốc cháy và lính Mỹ đang cố dập tắt lửa. Lúc này tôi mới hoàn hồn lại chút ít. Má tôi lo sợ không biết lửa có lan sang căn nhà thờ của chúng tôi không. Bà hét gọi mấy đứa cháu lo gói đồ lại, có gì còn mang ra được chút của cải. Trong tiếng lửa nổ lốp đốp, trong âm thanh ồn ào của những tràng tiểu liên bắn ran khắp các miệt vườn, tiếng khóc nổi lên thảm thiết: Dì ơi, dượng ơi, má tui chết rồi. Ai cứu cho với. Tiếng kêu, tiếng khóc, tiếng chân hàng xóm chạy thình thịch bất chấp cả súng đạn. Má tôi lùa chúng tôi vào nhà. Thái được cử sang chữa lửa. Mấy người lính Mỹ đi vòng lại, qua sân nhà, nhìn vào. Người Mỹ soát giấy chúng tôi lúc nãy đưa mấy ngón tay và nói một câu tiếng Việt bập bẹ đại ý báo cho biết ngoài đó có mấy người chết.
Xong rồi họ ra xe, đoàn xe rồ máy chạy vào thành phố, nhưng chỉ mấy phút sau, có lẽ xe chưa kịp qua khoảng cầu An Cựu, thì chúng tôi nghe miệt cầu đủ thứ súng nổ dữ dội. Một lát, đoàn xe Mỹ ầm ầm rút lui, không còn kiêng nể gì nữa, cứ bắn như mưa dọc hai bên đường. Nhưng lần này, xe trở về rất ít, hình như chỉ có đoàn xe đi sau. Có lẽ những chiếc xe này về chở thêm súng đạn, và đoàn xe đi trước đã lọt ổ phục kích.
Tiếng súng ở mạn cầu đã thưa thớt dần.
Chừng mười lăm phút sau, khi nhìn ra đường, chúng tôi thấy có một đoàn người mặc quần áo màu vàng, vai vác súng đi đầu trần. Tôi lật đật ra sân: Thôi đúng rồi, họ rút đi, và lính mình về. Tôi mừng rỡ như điên định đưa tay vẫy thì chợt nhận ra nơi hông họ đeo cái bị rết. Lính quốc gia thì mang ba lô chứ. Tôi sững lại. Ðoàn người cũng không đông lắm, chỉ chừng vài chục người.
Thái lúc này mới thấy sợ hãi:
“Thôi chết em rồi. Họ vào biết em là cán bộ xây dựng nông thôn thì không cách gì sống nổi.”
Tôi bảo nó đưa giấy tờ cho tôi giữ. Tôi cẩn thận bỏ giấy tờ của nó trong cái túi áo rồi xếp gọn đặt giữa mớ quần áo đang gói ngổn ngang trong một tấm drap lớn. Anh tôi cố tin tưởng:
“Anh nhà giáo chắc không can chi. Nếu họ hỏi em, em nói em là học sinh nghe.”
Thái dạ nhưng nghe chừng yếu xìu. Gia đình Bé lại lật đật dọn xuống. Mấy bao bố đựng gạo, áo quần, mấy cái soong. Chú tôi không đi, má tôi kêu trời kêu đất, nhưng tụi em tôi bảo chú ở lại giữ nhà. Trên đó đã có cái hầm cũ làm sau vụ pháo kích lần trước. Má tôi không tin tưởng vào cái hầm đó lắm. Bà bắt Bé đi gọi ông xuống nhà, nhưng Bé vừa đi một lát, đã hớt ha hớt hải quay lại:
“Bác ui, họ về đông như kiến. Họ đang họp ngoài nghẹo, họ treo cờ, họ hô hào. Họ lấy hết Huế rồi. Người ta bảo bên Phú Văn Lâu treo cái cờ gì to thục lúc. Con vừa tới thấy họ đang bắc loa gọi, con lủi nhanh vào vườn Bác Ái lủi về, may mà họ không thấy.”
Tôi hỏi có ai bị thương không, Bé nói là thấy họ đông lắm, sáng thấy có người bị thương, chừ đem đâu hết rồi. Má tôi nói liệu có di tản lên Từ Ðàm được không thì Bé cho biết là đường sá họ gác hết rồi, góc nào cũng có người đứng gác. Tôi hỏi đi hỏi lại là mày có thấy tận mắt không, nó bực mình: “Thì thấy mới chạy thục mạng về đây. Ðồn vận tải thấy vắng teo như không có người ở, tường thành gì cũng đổ nát hết...”
Lúc đó khoảng mười một giờ. Chúng tôi hết đứng lại ngồi, lóng ngóng nhìn ra đường. Lát lát má tôi sai một đứa cháu ra nhìn xem có ai đi lại không. Nhưng đường xá vắng ngắt. Mấy lần nó định đi lần về phía nghẹo đường xay, nhưng không đủ can đảm lê bước tới đó. Lúc này nó đã nhìn thấy ở đó treo một lá cờ VC. Nó trở vào mặt mày rầu rỉ:
“Trời lính mà ai cũng như tui thì Huế mất là phải. Biết vậy đừng có về cho xong. Ðã nghe lịnh cấm trại rồi mà còn về.”
Bé buồn cũng phải. Ðáng nhẽ ra dù Huế còn hay mất nó cũng phải có mặt với anh em. Nhưng ba tôi chết cuối năm, Bé được giấy phép mấy ngày đầu năm để lo việc nhà. Lúc này, đèn đuốc trên bàn thờ ba tôi lại sáng trưng, mỗi đứa chúng tôi đều thắp hương và cầu nguyện. Ðây là căn nhà thờ duy nhất của dòng họ tôi mà phải suốt cả một đời lăn lộn cực khổ làm ăn lương thiện, ba tôi mới gầy dựng nổi. Căn nhà chưa tu bổ thì ba tôi đã có một chỗ ngồi trong căn nhà thờ này. Súng đạn đêm qua và sáng nay đã nhân đức với căn nhà thờ của dòng họ chúng tôi ngoài mức tưởng tượng.
Rồi chúng tôi cũng còn lo ăn nữa. Bữa cơm trưa được nấu vội vàng nhưng không có đồ ăn. Ngày cuối năm thì xong việc đám ma. Ðến ngày mồng một gia đình tôi nguyện ăn chay để cầu nguyện cho người chết. Ðáng nhẽ phải ăn Tết ở ngôi nhà anh Lễ tôi ở Từ Ðàm, chúng tôi, kể cả anh Lễ, má tôi, cô em gái, mấy đứa cháu nhỏ, cùng mấy đứa em con chú đã tình nguyện ở lại để cầu kinh. Căn nhà thờ chứ không phải là nơi để ở nên thiếu thốn đủ thứ. Chúng tôi phải nạy cửa nhà ngang, xuống căn nhà phụ cho ông giáo Trường An Cựu thuê, vợ chồng họ về quê ăn Tết, để lấy chén bát và tìm đồ gia vị như nước mắm, muối ớt. Khổ là vì không định ở đây, chúng tôi không tích trữ gạo. Lúc này đã không còn nghe tiếng súng, hoặc có thì cũng chỉ là tiếng súng nhỏ vọng xa xa, ở một miệt nào đó. Như thế là nghĩa lý gì? Không có một chiếc máy bay, không có một chiếc xe chạy.
Ðoàn xe Mỹ đã vào tới thành phố tan biến đi ngả nào. Những Việt cộng vừa tụ họp tại nghẹo Hàng Xay bỗng tản đi đâu hết. Tại sao chú tôi ở xóm trên chỉ cách một con đường rầy, mấy cái vườn, cũng không xuống được. Lâu lâu lại thấy một đoàn người đi đâu ngoài đường phía dưới quốc lộ, vào thành phố. Căn nhà thờ của chúng tôi nằm ở An Cựu, sát ngoại ô, lại ngay đường quốc lộ nối Phú Bài với Huế.
Trong thành phố Huế lúc này ra sao, chúng tôi không tài nào đoán nổi. Cả nhà hợp nhau lại sửa căn hầm cũ dưới nhà bếp. Tiếng súng càng về chiều càng dữ dội. Ngoài đường bỗng vắng tanh. Ở nhà bếp, nhà trên, dân trong xóm đến tỵ nạn nằm la liệt mấy căn buồng nhỏ được che hai ba mặt tường. Má tôi sai đứa cháu dâu nhóm bếp nấu một nồi cháo, chắc chẳng ai còn lòng dạ nào ngồi ăn cơm chiều. Nhưng nồi cháo nấu vừa chín tới thì Thái đã nhìn thấy có người đi lại ở ngoài đường. Mặc kệ tiếng súng đang nổ ran mọi phía, mặc kệ bom đạn có thể nổ ngay trên đầu mình, cả nhà chúng tôi tràn ra sân, rồi ra đường cái. Một hai người đạp xe từ phía cầu An Cựu đi lui đi tới, Thái vẫy lại hỏi: “Ngoài nớ có ai đi không?” “Người ta tản cư qua bên sông hết.” Má tôi la lớn:
“Lên Bến Ngự Từ Ðàm được không?”
“Chắc được.”
Nghe tiếng “chắc được” thôi mà cả gia đình tôi cũng tràn trề hy vọng. Mấy đứa cháu giục phải di tản qua bên kia sông hoặc lên Từ Ðàm chứ ở đây chắc chết hết. Việt cộng đã về đóng kín hết mọi nhà, mọi đường phố. Nhà chúng tôi lại nằm ngay giữa hai cái đồn và ngọn đồi Thánh Giá nằm ngay phía đàng sau lưng. Nếu xáp lá cà ở đây một trận chắc cả làng An Cựu ra tro hết. Má tôi vơ vội một ít quần áo của ba tôi những thứ còn bỏ lại, không đem liệm cho người chết. Bà gói lại cẩn thận. Gia đình mấy đứa em họ tôi thì lo gánh gạo, quần áo, nồi chảo và những dụng cụ cần thiết. Tôi xách cái ví tay, cái xách nhỏ. Anh tôi dắt chiếc Honda chở em gái tôi với hai đứa cháu đi trước. Tới gần cầu An Cựu, má tôi nói anh cứ đi trước đi, chở con và em lên rồi trở lại đón từng người bằng xe cho mau. Thái lấy chiếc xe đạp tìm đường sang phố. Chúng tôi chia tay ở trước đồn vận tải. Từng đoàn người cắm cúi lật đật, bồng bế, xách gói chạy qua phía cầu. Chúng tôi theo họ nhưng tới cầu cả bọn không được đi về phía Tân Lăng, Phú Cam mà cứ bị xua lại cầu. Lúc chúng tôi chạy tới, một trong hai người đàn ông gác cầu đưa tay chận lại:
“Ði đâu, bà con ai ở yên trong nhà, không được chạy.”
Tôi đứng sững đàng sau lưng má tôi. Hai người đàn ông mặc quần áo ka ki vàng, nhưng chân đi dép. Không phải là lính quốc gia rồi; chắc họ là quân giải phóng. Tôi nhìn sững họ không nói được một câu, miệng tôi cứng lại. Má tôi nói như muốn khóc:
“Nhà cửa sập rồi mấy ông ơi, còn chi mà ở. Tui sang nhà bà con bên kia sông.”
Lúc đó tôi không còn thấy bóng em tôi chở em gái và cháu tôi đâu nữa. Tôi nghĩ là anh đã đi thoát rồi. Hai người lính vẫy cho chúng tôi qua cầu. Mấy vũng máu đọng giữa cầu chưa khô, ruồi nhặng bu đen xì. Chỉ một đoạn đường ngắn mà tôi nhìn thấy biết bao nhiêu dép, giày vớ, quần áo rách, bị rết, ba lô văng bừa bãi, dính lẫn với máu và những mảnh thịt.
Má tôi bảo qua cầu rồi cứ đi dọc bờ sông tìm đường lên căn nhà ở Từ Ðàm. Nhưng đi được một đoạn, chúng tôi thấy những người đi trước lúp xúp chạy trở lại, vừa chạy vừa khóc. Chúng tôi hỏi họ không nói ra được, cứ làm dấu vẫy lui. Tôi chận một cô nhỏ:
“Sao trở lui vậy em?”
“Trên nớ, nơi cầu Phủ Cam họ đứng đầy, họ gác, họ đuổi lui.”
“Cứ đi tràn không được à?”
“Họ bắn hai ba người.”
Má tôi níu chúng tôi lại. Mấy đứa em tôi cũng hốt hoảng bảo vợ con tất tưởi đi lui. Chúng là lính gặp họ chắc không ổn rồi.
Không hiểu nhờ phép lạ nào mà khi qua cầu họ không hỏi tỉ mỉ. Khi má tôi xin qua cầu được, cả đoàn cứ nối đuôi nhau mà chạy. Cũng có lẽ họ còn bận với những đoàn người đi sau.
Qua được cầu rồi, lúc này tôi mới dám nhìn hai bên đường phố. Chợ An Cựu như một bãi chiến trường, máu còn chưa khô, máu in đỏ trên những bức tường loang lổ vết đạn. Một chiếc xe tăng lủi vào lề đường đâm vào một căn phố, tấm bảng hiệu còn treo lủng lẳng. Hai ba căn phố không còn hình dáng gì. Không một căn nhà trước đường nào còn nguyên. Giữa đường đầy rẫy chướng ngại vật, máu me, quần áo, rác, sắt vụn, gỗ ván. Chúng tôi len lỏi mà đi. Không một đôi mắt nhìn ra cửa, những căn nhà như đã hoang vắng hết. Không còn biết đâu yên mà chạy tới nữa. Thôi cứ liều, má tôi nói liều mà tìm đường lên Từ Ðàm, gia đình họp lại sống chết có nhau. Chúng tôi đi hết con đường ngắn, dọc xuống Lê Lợi. Con đường đàng trước mặt dẫn sang nhà bưu điện và cầu Tràng Tiền sao vắng ngắt. Tiếng súng ở mặt nhà dây thép nổ như bắp rang. Ðoàn người này đi tới, đoàn người kia chạy lui, không kịp nghe nhau trả lời, cứ thế, chạy loanh quanh trong những khu vực chưa bị kiểm soát. Cuối cùng chúng tôi dồn vào khu nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế.
Không còn chạy đi đâu được nữa, phía trước mặt người ta đã chạy lui lại hết. Phía đàng sau cũng không còn đường trở lui. Má tôi kêu trời kêu đất. Anh tôi đã mất tăm dạng. Ngoài đường thưa người dần và nhiều tiếng súng gần tới nơi. Mọi người chạy ào vào bên trong nhà thờ hết. Tất cả được dồn vào khu nhà giảng. Tiếng súng như đã bao quanh khu nhà thờ.
Má tôi kêu chúng tôi xuống căn hầm xây dưới giảng đường nhưng chỗ đó không còn chen chân nổi. Chúng tôi lại kéo nhau vào một chỗ trong góc. Bé trải chiếc chiếu cũ, cả nhà hơn mười người, gồm người lớn và con nít chen nhau một chỗ ngồi nhỏ. Khi tìm ra được một chỗ ngồi rồi, tôi mới nghe thấy tiếng vo ve từ dưới hầm đưa lên, tiếng trẻ con la khóc, tiếng cãi nhau, tranh giành nhau một góc nhà. Bên ngoài tiếng súng vẫn nổ ròn rã. Ðược một lát khi tiếng súng dứt, một số người khác chạy đến nhà thờ. Tôi chạy ra sân gặp Thái đi vào. Nó chụp lấy vai tôi: "Vô đi chị. Súng còn nhiều lắm."
Tôi hỏi:
“Sao em trở lại, có gặp anh Lễ không?”
“Không chị ơi, em lên cầu Kho Rèn, định đi qua cầu, gặp họ họ kêu lại, bắt giữ em. Em năn nỉ mãi mới cho đi. Em tưởng em bị bắt rồi.”
Tôi hỏi Thái thấy gì không. Thái nói thấy gần mũi cầu xác chết còn la liệt. Một số người bị bắt ngồi bên kia cầu. Có hai ba người Mỹ bị trói dẫn đi.
Một số người khác lại tràn vào nhà thờ, tôi tới hỏi thăm có ai miệt cầu Bến Ngự về có thấy một người đàn ông chở hai đứa nhỏ và một cô gái không. Một cậu nhỏ kể: có thấy một người đàn ông, chở hai đứa nhỏ với một cô gái cứ phóng đại xe qua cầu. Họ bắn mấy phát, xe suýt đâm xuống sông. Họ giữ lại, rồi thấy tha cho đi lên phía cầu Bến Ngự. Thái nghe nói quả quyết anh Lễ đã thoát. Tôi dẫn Thái tới chỗ má tôi ngồi. Mấy đứa cháu nhỏ đang ngồi ăn bánh chưng. Má tôi đưa mắt nhìn tôi dò hỏi. Tôi kể lại chuyện vừa nghe được cho má tôi nghe. Thái kêu khát nước, vặn cái vòi nhưng không có một giọt nước nào. Mấy đứa nhỏ đái cả ra chiếu.
Người này cứ hỏi người kia mãi về những điều đã trông thấy, đã kể. Tôi hỏi thăm Thái về đường đi lên Từ Ðàm, Thái nói qua cầu Tràng Tiền được, không đi lên Nam Giao được. Nó đã cố hết sức, nhưng thấy không có cách nào nên đành quay về nhà thờ, không ngờ gặp gia đình cũng ở đó. Tôi và Thái cứ nghe êm êm tiếng súng là ra sân đứng ngóng, cho tới chiều tối không thấy anh tôi trở lại. Chúng tôi dắt nhau đi vào. Thái lấy cái áo măng tô của ba tôi để lại, khoác vào người tôi:
"Chị mặc đi kẻo lạnh."
Trời mưa lất phất, cả một ngày tôi không còn đủ sức để ý đến bầu trời, đến cây cỏ. Tôi nhìn lên bầu trời màu chì, nặng nhọc, những hạt mưa bám vào tóc, vào mặt không làm tôi lạnh hơn. Sự lạnh lẽo, tê cóng, lo sợ, run rẩy suốt một ngày đã bóp cứng da thịt, và thể xác tôi đã như bị ướp trong tủ lạnh. Khi trở vào tôi bước qua chân mấy người bị thương nằm la liệt ở một phòng nhỏ gần cửa ra vào. Mấy người đàn ông đang băng bó, họ làm việc cũng lăng xăng lắm. Mấy ngọn đèn cầy đã được thắp ở mấy cái bục, ở các hàng ghế, khi tôi vừa xuống khỏi mấy bực cấp nơi khoảng giữa giảng đường xây cao, đặt tượng Ðức Mẹ, tôi bỗng ngồi thụp xuống. Hình như Thái cũng kéo tay tôi nữa. Một tiếng vỡ khô khan. Tiếng một người rú lên. Khi định tỉnh nhìn lại, một trong hai chậu cây kê ở hai cái bệ đá đã đổ xuống. Chị đàn bà nằm sấp xuống nền gạch, bên cạnh những mảnh sành vỡ. Chị đã dựa đầu vào cái chậu, và quên đi. Cái chậu rơi, đẩy chị ngã bổ nhào. Nhiều tiếng chửi rủa vang lên ở nhiều góc tối. Tôi ngồi bó gối bên cạnh má tôi và Thái. Má tôi chưa ăn gì, tôi cũng vậy. Thái hỏi tôi có đói không rồi chạy đi, một lát, nó trở vào với đòn bánh tét trên tay. Cầm miếng bánh đưa lên miệng, tôi nuốt không trôi. Tôi cũng không thấy đói, thấy khát mà chỉ thấy trong lòng cồn cào trăm thứ.
Một ngày rồi, tôi không nhớ chồng con. Căn nhà nhỏ của gia đình tôi ở Sài Gòn lúc này ra sao? Có yên ổn không? Chồng con tôi đang làm gì? Tôi tưởng tượng từng khuôn mặt các con, hình dáng đi ra đi vào của chồng, rồi cả bữa cơm tẻ nhạt nữa. Bữa cơm không có bàn tay người đàn bà, thiếu chỗ ngồi đó, bữa cơm tẻ nhạt tội nghiệp lắm. Má tôi cầm chặt tay tôi:
“Con ơi, dựa vào vai mạ mà ngủ.”
Thái đứng lên, nó nói phải đi kiếm một chỗ nào tốt hơn. Tôi gục đầu vào vai má tôi. Mấy đứa cháu nhỏ đang khóc, đòi nước, đòi cơm, đòi sữa. Tôi nghe tiếng cánh cửa sắt phía cửa chính kêu lẻng kẻng. Không có một ai ở ngoài đường, ngoài sân. Ngôi nhà giảng rộng lớn có mái cong và nhiều chỗ đặt kính, tường thật dày, cách khoảng những lá cửa bằng gỗ lim đóng chặt.
Nhiều tiếng đạn lớn bay ngang qua khu nhà thờ, rồi tiếng nổ ầm ầm sau đó. Má tôi kéo tôi tựa người vào bà. Tôi ngồi như thế và nhìn mãi ngọn đèn cầy đặt nơi chân ghế, trước mặt. Ngọn lửa không nhắc nhủ tôi gì hết, cũng không đem tới chút hy vọng nào.
Tôi nghe những tiếng khóc nhỏ, nhiều vô số kể. Có tiếng khóc thét lên ở góc phòng đằng kia. Chắc một người nào đó vừa mới chết.
Có tiếng dép lẹp xẹp từ một ngách nhỏ nối liền nhà ngang. Rồi một cái bóng to lớn nổi lên ở khoảng tường đằng trước mặt. Rồi lố nhố những cái bóng nhỏ khác, đầu với nửa người cũng hiện lên theo. Tôi quay lại, trên cái bục cao, dưới tượng Ðức Mẹ, một người đàn ông mặc áo chùng đen đang đứng giơ cao ngọn đuốc. Một ông thầy, một linh mục. Tất cả mọi tiếng khóc rấm rứt, những tiếng thì thầm vụt biến mất. Tôi nghe phía đó cất lên một giọng nói:
“Tắt hết đèn cầy đi, tôi sẽ đặt ngọn đuốc này ở đây. Mọi người bình tĩnh và tìm chỗ ngủ đi. Chúa sẽ che chở cho chúng ta.”
Ngọn đuốc chiếu những đầu người ngồi lổm chổm lên tường, nhưng chiếc bóng của ông linh mục ngắn dần, rồi biến mất.
Chương 2 : Nhà thờ dòng Chúa Cứu thế
Những tiếng khóc tấm tức đã rời rạc, nhạt nhẽo dần. Tất cả các ngọn đèn cầy cháy đã lụi tàn, nhưng bên trong nhà thờ không còn đủ không khí để thở. Thái đã cố gắng dồn được cho má tôi một chỗ nằm khá thoải mái. Dĩ nhiên được một chỗ nằm như thế là đương đầu với sự nguy hiểm nhiều hơn. Tôi và em Thái cũng chọn một chỗ nằm trên hàng ghế nguyện. Mọi người khác chiếm những chỗ kín đáo, như chui giữa các dãy ghế trống, hoặc dưới chân bàn, chân ghế. Họ hy vọng những vật chặn mảnh mai đó sẽ chống đỡ phần nào bom đạn cho họ. Chúng tôi chọn hai chiếc ghế dài gần nhau, nhờ vậy hai chị em có thể thì thầm trò chuyện. Bầu trời bên ngoài gần như yên tĩnh, lâu lâu, điểm vài tiếng nổ xé nát. Gạch đá, kính vỡ lại loảng xoảng rơi. Tôi lo lắng:
“Hay mình xuống đất nằm đi.”
Thái cản:
“Cứ nằm đây. Trái bom nếu nó trúng thì đất cũng tung lên, mấy cái bàn, cái ghế nhằm nhò chi. Nằm ở đây dù gì cũng còn dễ thở, chị. Không can chi mô!”
Bây giờ thì thấy chưa can chi. Nhưng khi can chi thì... Nhưng trong lúc hoảng sợ, còn nghe tiếng người trấn an, cũng đỡ nhiều lắm. Mà xuống sàn, chắc tôi cũng không chịu đựng với hơi người, tiếng rên rỉ kêu la của người bị thương chưa được băng bó. Cứ nghe tiếng nổ là má tôi chồm dậy:
“Xuống đất. Xuống đất hết đi bây.”
Thấy kêu hoài mà không nghe con cháu trả lời, má tôi càu nhàu rồi cũng chịu phép. Tôi nằm thẳng, mắt mở lớn nhìn lên trần nhà mà mái đã bị vạt nhiều góc, thỉnh thoảng thấy những ánh sáng xanh lè xẹt qua rồi tiếp theo tiếng nổ long trời lở đất. Qua khung kính đủ màu trên vòm nhà thờ, có những ánh sáng lù mù mà tôi đoán là của hỏa châu, vì đó là thứ ánh sáng chỉ chập chờn, chập chờn rồi tắt ngúm, điểm vào những tia lửa xẹt và những tiếng nổ lớn gầm thét.
Tôi cố nằm thật im, cố ôn lại những phút kinh hoàng đầu tiên của thành phố Huế và cũng để quen dần với biến cố khủng khiếp đang kéo dài. Mới chưa qua một ngày mà thời gian dài như cả tháng, cả năm. Ðã có lúc, hy vọng có bừng lên. Ðó là lúc ngồi ở bệ đá, tôi nghe lời bàn tán của các người chạy loạn:
“Chắc một hai bữa rồi về. Mấy người lính giải phóng nói họ chỉ ở chơi ăn Tết với đồng bào bảy ngày rồi họ đi.”
Mới ngày thứ nhất đã bao nhiêu người chết, máu đổ. Chúng tôi chỉ mới chịu được có một ngày. Còn những ngày tới...
Tôi đang nghĩ mông lung để dằn nén cơn sợ hãi thì bỗng bàn chân tôi bị ai nắm lấy, kéo một cái. Tôi rụt chân lại, không dám la, chỉ ú ớ rồi ngồi rột dậy. Thái nghe tiếng động, bên ghế kia cũng bật ngồi dậy theo.
“Chi rứa chị. Chi rứa?”
Giọng Thái nhỏ nhưng đầy sự lo âu. Tôi há miệng mà không nói ra lời, quai hàm tôi cứng ngắc. Trước mặt tôi, Trúc cũng đã ngồi dậy tự bao giờ, rên khẽ:
“Chị ngó coi. Ai nơi a tề?”
Nó nhào qua, bấu chặt lấy vai tôi. Hai mắt tôi mở trừng trừng. Chỉ một màn đen. Bàn tay của ai đó đã buông chân tôi ra. Nếu không có ánh hỏa châu bên ngoài vừa xẹt sáng thì tôi không nhận ra cái bóng đen đang chồm tới phía chúng tôi.
“Em...em...”
Giọng Thái:
“Chị đừng sợ.”
Cái bóng vấp vào chân ghế, rồi một giọng nói yếu ớt:
“Cho em ngủ chung với, em sợ quá chị ơi.”
Nhận ra giọng nói của Thu, cô em họ, tôi vẫn chưa hoàn hồn. Nhưng tôi đã mở miệng được:
“Nói nho nhỏ. Sợ chi vậy?”
Thu thì thầm:
“Em nằm bên cạnh cái bà mà khi chiều mình thấy đó. Bà đó ôm cái bọc nhỏ trước ngực. Nằm mà cũng ôm khư khư không rời...”
“Thì kệ bà nớ. Có chi mà sợ chớ.”
“Em ngửi thấy mùi hôi, hôi lắm.”
Tôi nạt nhỏ:
“Nhiều chuyện. Chạy cả ngày, có người sợ đái trong quần. Hôi chớ răng không hôi. Mai mốt em cũng hôi như cú.”
“Không phải. Em nằm sát bên cạnh, thấy ghê ghê. Bà cứ khóc rỉ rả như con dế kêu, rồi cứ nói lầm bầm trong miệng như điên, mà cái mùi... nó kỳ lỳ... Em sợ lắm.”
Thái phải co chân lại, nằm sát một đầu ghế để nhường chỗ cho Thu ghé vào.
Ðêm đầu tiên xa nhà, ngủ ở một nơi hoàn toàn xa lạ với sự sợ hãi giày vò, không biết thân mạng mình sẽ ra sao, gần hai giờ sáng mà tôi vẫn không chợp mắt được mặc dù quá mệt mỏi. Bỗng nhiên tôi nghe một tiếng kêu rú thất thanh và tiếng rú không ngừng, vẫn tiếp tục. Tôi hoảng sợ đứng bật dậy, và trong khi đứng dậy, tôi đạp nhầm một người nào đó đang nằm giữa lòng ghế. Tức thì bắp đùi tôi bị véo một cái đau điếng buốt lên tận đầu, nhưng cũng nhờ đó mà tôi tỉnh táo được. Nhiều tiếng kêu, tiếng lào xào bàn tán, rồi đột ngột rơi vào sự im lặng, như mọi người đã biến mất hết trong bóng tối. Rồi mọi người lại hiện ra, toàn những đầu là đầu khi một que diêm lóe lên và một ngọn đuốc trên bục được thắp sáng. Cha Sở đang bước lên cái bục gỗ nhỏ, giọng lo lắng hỏi:
“Có chuyện chi rứa, bà con? Có ai bị thương?”
Có tiếng khóc từ một góc xa, tiếng một người già rụt rè lẫn trong tiếng rên rỉ của ai đó.
“Dạ thưa cha, có người... có người đau bụng... đẻ.”
Nhiều tiếng thở ra. Nhiều tiếng bầu bầu khó chịu. Trong hoàn cảnh này không ai còn đủ sức lo cho ai, thương cho ai ngoài thân mình. Nhiều cái đầu ngã xuống, nhiều người nằm ngủ trở lại. Cha Sở càng lộ vẻ lo lắng:
“Có ai biết đỡ đẻ không? Có ai là y tá không?”
Im lặng.
Cha Sở lớn tiếng hơn, nhắc lại:
“Ai biết đỡ đẻ, xin giúp... Tôi yêu cầu quí vị...”
Không có ai trả lời hết. Tiếng xì xào cũng ngưng bặt và giọng cha Sở hoàn toàn rơi vào im vắng. Ánh đuốc lung linh chiếu lờ mờ khuôn mặt đầy tuyệt vọng của cha. Cha Sở đốt một ngọn đèn cầy rồi cố mở đường đi xuống giữa hai hàng ghế.
“Có ai không? Có ai không?”
Tiếng cha Sở càng lúc càng lạc lõng, vô vọng.
Cha Sở vẫn cố gắng len lỏi đi xuống thêm những dãy ghế cuối. Buổi chiều người ta đã giành nhau quay ghế thành từng khu riêng cho từng gia đình. Những người đến sau, chịu thiệt thòi, nằm tràn ra sàn nhà, chỗ nào lọt được để nằm hoặc ngồi là họ tranh giành nhau.
“Có ai làm ơn. Xin Chúa chúc phúc cho người hiền lương, xin bà con rủ lòng thương xót...”
Sự tận tụy của cha Sở rồi cũng được một vài người đáp ứng khi cha xuống đến cuối phòng. Vài bóng người đi theo cha, tôi không nhìn rõ họ nhưng tôi biết trong đám đó có Thái.
Người ta khiêng người đàn bà chuyển bụng đẻ lên căn gác lửng nơi dành cho ban nhạc trong các buổi lễ hoặc buổi giảng. Căn gác này hoàn toàn trống, nó gần mái nhà và được coi là nơi nguy hiểm nhất, không ai can đảm lên đó để núp bom đạn.
“Lên đó dễ sợ lắm, dễ ăn bom...”
Một giọng nói xì xầm, không chút xót thương người mà gần như còn mừng cho mình kiếm được chỗ tốt hơn. Tôi âm thầm cầu nguyện, năn nỉ bom đạn ngoài kia, xin ngừng lại một lúc cho người đàn bà qua cơn hoạn nạn.
Trên căn gác lửng, tiếng rên la của người đàn bà bắt đầu thảm thiết hơn, rền rĩ hơn. Con Thu bạo dạn nghểnh đầu nghe ngóng, nó phê một câu:
“Chị ơi, cái bà ni không biết dị chi hết. Ðẻ mà la quá trời...”
Con Thu chưa làm mẹ, nó làm sao hiểu được cảnh người đàn bà qua biển mồ côi một mình. Tôi đã sinh đẻ, tôi biết cơn đau đẻ hành hạ người đàn bà như thế nào, nhưng lúc này tôi cũng không thể chia sẻ gì được cho bà ta. Tôi đã mệt quá, cơn đau đẻ của bà làm cho tôi càng mệt thêm. Không khí như từ đâu tràn vào, xông tới và tôi thở phào, nhẹ nhõm khi nghe tiếng con nít khóc oa oa chào đời. Tiếng khóc mạnh mẽ, bất chấp, không biết có đem sự tin tưởng, hy vọng, sức lực tiếp cho ai không, nhưng với tôi thì có. Cám ơn tiếng khóc chào đời trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng.
“Khỏe re. Hết mệt cái lỗ tai. Bà nớ đẻ rồi.”
Giọng Thu có chút vui vẻ mà dửng dưng. Tiếng khóc của đứa trẻ lại nổi lên, mạnh dạn, như thi đua với tiếng bom, tiếng đạn bên ngoài đang hứng dậïy. Tôi nhớ một câu trong Thánh Kinh: Mừng rằng mình đã sanh một người cho thế gian... Ðêm nay, đâu chỉ ở trong cái góc tả tơi, trong sự sống sự chết này có một con người mới tới, mà trong thành phố Huế, trong ly loạn, vẫn còn có những tiếng khóc khác nữa, đang lăn xả vào đời. Tiếng khóc sơ sinh trong căn nhà đang bắt lửa cháy, trong lúc viên đạn đã đi đến nửa chừng. Tiếng khóc ra đời để kết thúc những đau đớn vết thương trên thân thể người mẹ đang giờ hấp hối... Tiếng con nít khóc càng làm tôi nhớ tới các con tôi lúc này đang ở Sài Gòn. Có chuyện gì xẩy ra nơi đó không? Có không? Nếu có chuyện gì thì ruột mẹ sẽ đau, sẽ đứt, nếu có chuyện gì xẩy ra cho mẹ, ruột của các con cũng đau, cũng đứt...
Ngọn đuốc trên bệ đá đã được thổi tắt, nhưng trên căn gác vẫn còn chút ánh sáng rọi xuống. Nguời mẹ đã hết rên đau. Ðứa bé đã hết khóc. Tôi hình dung chị đàn bà đang ngủ. Hài nhi cũng ngủ. Hai giấc ngủ hòa hợp bình yên mặc kệ giông bão, bom đạn của cuộc đời đang ào ạt tới.
Nhưng đêm cũng bắt con người ngừng bớt sự giết chóc. Tiếng bom thưa thớt hơn và những tràng súng lâu lâu mới điểm để không có sự trống trải của đêm dài. Tôi chợp mắt được.
Gần sáng, tôi bỗng thức tỉnh. Quên là đang ngủ trên cái ghế dài, hẹp, tôi ngồi bật dậy như khi còn ở nhà mình. Tôi chao đảo muốn té. Vừa lúc đó tôi cũng chợt nhận ra hoàn cảnh của mình lúc này. Trước hết tôi đảo mắt tìm má tôi. Bà vẫn nằm co quắp, đầu gối lên cái giỏ đựng quần áo. Thu và Thái nằm ngược chiều, đầu châu vào nhau, cũng co quắp người mới đủ chỗ. Còn sớm lắm, bầu trời chưa sáng hẳn nhưng bên ngoài vẫn chiếu vào những luồng sáng của hỏa châu. Không còn tiếng bom, không còn tiếng súng. Bên ngoài im vắng đến ngột ngạt và không hiểu chuyện gì đã xẩy ra? Tôi định qua đánh thức má tôi dậy. Nhưng vừa bỏ chân xuống chưa tới mặt sàn, người tôi như bị điện giựt. Rõ ràng tôi đạp lên một thân người, nhưng cái thân cứng như cây củi, mà lạnh ngắt. Hỏa châu lại chiếu vào, lại cho tôi nhìn thấy một xác chết nằm giữa hai hàng ghế, mắt vẫn còn mở trừng trừng như hướng lên những lỗ hổng trên mái nhà để thấy ánh sáng. Không biết tôi đã dùng bao nhiêu sức lực, hay cái thân tôi biến thành cái lò xo nhảy bắn tới chỗ Thái nằm, chồm lên đầu Thái và Thu. Hai đứa em bừng tỉnh, cuống quíu ôm chặt tôi:
“Chi rứa chị? Chi rứa?”
Tôi ú ớ. Hai đứa em ngơ ngác nhìn quanh. Mọi người vẫn còn ngủ say. Lúc này ánh sáng ngoài trời khá tỏ, đã chui vào từ những lỗ hổng trên mái nên có thể thấy toàn cảnh tuy không được rõ ràng. Thái vẫn chưa thấy xác chết nằm dưới đất nên hỏi:
“Chuyện chi rứa chị. Có chi mà chị sợ?”
Không dám lên tiếng, chỉ đưa tay chỉ. Con Thu rụt đầu, bưng tai:
“Trời đất. Coi tề. Dễ sợ quá, sợ quá...”
Thái ra dấu cho chúng tôi im lặng. Thái đã từng là một cán bộ xây dựng nông thôn nên thấy người chết cũng đã nhiều, nó không sợ hãi.
“Chị và Thu ngồi yên ở đây. Ngồi bỏ chân lên ghế. Ðể em...”
Thái bỏ đi, nói là tìm cha Sở. Mấy chị em tôi ngồi co rút người, ôm chặt lấy nhau. Phía bên kia, má tôi quá mệt mỏi, còn ngủ nhừ. Một lát sau xác chết được khiêng ra ngoài. Nơi chỗ nằm của xác chết vừa được mang đi, còn để lại một vũng nước vàng bầy nhầy máu mủ chảy ra từ vết thương. Thái lấy khăn mùi soa cột ngang miệng mũi rồi đi dọn dẹp. Xong xuôi, Thái đổi chỗ cho tôi:
“Chị nằm đó nghỉ đi. Em qua bên ghế kia.”
Thái nhướng mắt, lắng tai nghe ngóng:
“Bên ngoài im rơ. Khi hồi em khiêng xác chết ra ngoài cũng thấy lặng như tờ. Chắc yên rồi. Chờ sáng coi ra răng rồi mình về nhà.”
Tôi vẫn không tin tưởng:
“Biết ra răng mà dám về. Ðợi coi người ta răng thì mình theo....”
“Rứa chị nằm ngủ đi. Coi con mắt chị đỏ kè tề...”
Nhưng chưa kịp nằm xuống, Thu đã kéo giật tôi:
“Chị ơi, chị...”
“Chi nữa?”
“Coi cái bà đó tề. Bà đó khi túi nằm gần em, răng chừ mò tới gần đây rồi nì. I, chi coi...”
Từ dưới nền đất, cách chừng hai dãy ghế, một người đàn bà lồm cồm bò dậy. Chị đứng thẳng, tay vẫn ôm cái bọc khư khư. Lúc này trời sáng, tôi nhận ra được cái bọc bằng vải, bên trong là gì? Một đứa bé? Sao không thấy cựa quậy nhúc nhích ? Ðứa bé bịnh nặng? Thiếu ăn? Hết hơi sức? Ðôi mắt của chị đàn bà không còn chút thần sắc. Chị liếc nhìn chúng tôi bằng ánh mắt khờ khạo rồi cúi xuống đung đưa cái bọc vải, giọng rền rĩ:
“À... ơi! Con ngủ đi con... À ơi... Ru hời ru hỡi là ru... Bên cạn thì chống, bên su (sâu) thì chèo... Ngủ đi con... Con ngoan... con ơi là con!”
Giọng chị rít lên:
“Con ơi là con. Con ơi!”
Chị đàn bà bật khóc. Tôi không hiểu tại sao chị ru con mà khóc? Chắc hôm qua nhà chị bị cháy, chồng chị chết rồi, chị bồng đứa con chạy thoát? Thái nằm day mặt về phía chị đàn bà, hỏi:
“Con chị đó há?”
Chị đàn bà gật đầu. Gật tới mấy cái liên tiếp.
“Nó mần răng mà chị khóc? Nó đau ốm chi không?”
Chị đàn bà ôm chặt cái bọc vải hơn, hơi quay người như sợ người ta giành mất:
“Không răng. Không răng hết.”
“Gia đình chị mô hết rồi?”
“Chết. Chết hết. Chết. Chết hết, còn mô nữa...”
Chị ngưng lại. Nước mắt đã nhòe nhoẹt trên gương mặt xanh xao. Tôi không dám nhìn khuôn mặt méo mó khổ đau đó. Con Thu nói nhỏ:
“Chắc mụ nớ điên. Ngó cặp mắt lờ đờ... dễ sợ...”
Lắc đầu, nghiêm mặt. Cũng không thể la đứa em. Nhiều người đã trở dậy. Nhiều người bạo gan đi ra ngoài tìm nước súc miệng, rửa mặt. Cha Sở trở lại, yêu cầu thân nhân phải khiêng những kẻ bị thương ra khu nhà ngang. Ở đó có một số thanh niên tình nguyện giúp đỡ, săn sóc, băng bó cho người bị thương. Nhưng không ai nghe lời, họ nghĩ dù người bị thương, được ở bên trong nhà thờ, gần gụi thân nhân vẫn an toàn hơn. Cha Sở phải cùng số thanh niên đi len lỏi vào các dãy ghế. Nhiều người được khiêng ra ngoài. Thái cũng hăng hái cùng đám thanh niên giúp cha Sở. Má tôi cũng đã dậy từ lúc nào, và Thái đã tìm được nước, dấp ướt khăn đem tới cho má tôi lau mặt. Tôi lần tới bên má, ngồi giữa má tôi và một bà cụ già khác.
“Má”.
Tôi nắm chặt tay bà. Hơi ấm. Thân thuộc. Êm ái. Tôi hơi tựa người vào mẹ:
“Má. Má có ngủ được không?”
“Gần sáng thì mệt quá, má ngủ mất hồi mô không hay. Họ có bắn nhau nhiều không?”
“ Ít thôi, má.”
“Ừa. Hèn chi ngủ yên, không bị giật mình.”
Tôi không kể cho má tôi nghe vài chuyện đã chứng kiến hồi nửa đêm về sáng. Má tôi lại hỏi:
“Liệu có yên không con. Mần răng mà về coi nhà cửa. Còn gia đình anh con trên Từ Ðàm nữa, bặt vô âm tín như ri làm má lo trong bụng quá. Chị nờ, tui còn thằng con trai, vợ nó, con nó đang kẹt trên Từ Ðàm...”
Má tôi lại bật khóc. Bà cụ ngồi bên cạnh an ủi:
“Ai cũng chịu chớ riêng chi mình chị. Khóc cũng không làm chi được. Tui, thằng con trai bị họ bắt từ bữa đầu, mấy đứa cháu chạy lạc mô không thấy, chết sống ra răng cũng không biết... Tui cũng bấy trong bụng chị nờ...”
Khuyên nhủ người đồng cảnh ngộ lại làm động mối thương tâm, bà cụ cũng ứa nước mắt. Bà đưa tay chỉ ông cụ đang ngồi phía đầu ghế đối diện, tay ôm bọc quần áo, nói:
“Ông nhà tui đó tề. Chừ chỉ còn hai cái mạng già với nhau còn con cháu trẻ không thấy mô... Ai cũng khổ hết.”
Chút tĩnh lặng trong nhà thờ bị quấy động. Mọi người đã trở dậy. Tiếng ồn ào như ong vỡ. Mấy cánh cửa gỗ lim chắc chắn được hé mở, ánh sáng lùa vào. Thái bỏ đi ra ngoài. Một lát sau Thái trở vào cho biết bên ngoài yên lắm. Nhiều người cũng đi ra nghe ngóng, có người còn ra tận đường phố đứng nhìn lui nhìn tới rồi trở vào thông tin cho mọi người. Lát sau, ngay trong sân nhà thờ, đã có nhiều nhóm tụm năm tụm ba nhìn ra con đường vắng ngắt như đã hoang phế từ bao lâu rồi.
“Lợi dụng đang yên, mình ra ngoài kiếm nước, chị.”
Mấy chị em dè dặt đi theo sau lưng Thái ra ngoài, tới giếng nước. Mọi người đã tới đây đông nghẹt và đang giành giựt nhau với chỉ một cái gàu múc nước. Giếng nước nằm cạnh một dãy nhà bếp nối liền với dãy nhà ngang nằm mé một khu vườn rộng trồng đủ loại cây trái. Qua một ngày một đêm tù túng bên trong nhà thờ, lúc này tôi mới hít thở được khí trời, nhìn thấy gốc cây ngọn cỏ và mặt đất còn bình yên.
Bầu trời nặng trĩu màu xám và bắt đầu rơi xuống những hạt mưa nhỏ như bụi. Tôi kéo vạt áo măng tô lại và cài nút kín cổ vì không khí bên ngoài giá lạnh. Cả đêm qua bên trong nhà thờ, đầy hơi người, đầy lo âu, tôi đã không thấy lạnh mà còn nóng bức. Lúc này đứng bên giếng nước, nhìn cỏ cây, mưa bụi, không khí trong lành, tôi thở hít không ngừng, thở hít ham hố như sợ ngày mai, ngày mốt sẽ không còn được thở trong bầu không khí như vậy nữa.
Một lúc sau tôi cũng phải rời giếng nước và vườn cây xanh um. Thu bỏ vào bên trong nhà thờ trước. Nó đã lấy được một lon bơ đầy nước. Thái rủ tôi ra đường coi có gì lạ không. Con đường như dài, rộng hơn ngày thường, trống vắng và đầy bí hiểm hơn ngày thường. Chúng tôi vòng lại phía sau, chỗ có một con đường tráng nhựa chạy thẳng, dẫn tới một bờ sông. Cũng có một vài người ra đến đó. Chúng tôi hỏi nhau, cũng không ai biết gì hơn chúng tôi cả.
Sau cùng, hai chị em tôi đi vào một xóm nhỏ. Mọi nhà đều cửa đóng then gài giữa những khu vườn nhỏ tắm mưa. Cũng còn vài nhà có người. Thấy chúng tôi, họ thò đầu ra ở những cánh cửa hé và hỏi thăm:
“Mấy người ở mô. Thấy ra răng rồi? Họ còn đó hay đã đi chưa?”
Chúng tôi còn biết gì hơn họ? Chúng tôi lắc đầu. Con đường phía trước không biết chuyện gì đang chờ đợi? Lúc đó, có một toán người từ bờ sông chạy ngược lên, họ ra dấu cho chúng tôi trở lại. Và rồi đám đông cùng theo chân chúng tôi, tụ trong sân nhà thờ. Họ cho biết họ ở phía bên kia cầu, họ đã chạy loạn và muốn trở về. Nhưng ở bên kia cầu lính Việt cộng đang canh giữ.
“Thấy chúng tôi, họ đuổi trở lại nhà. Chúng tôi chạy đại bất kể, họ đưa súng lên nhắm bắn. Rứa là tụi tôi chạy bán sống bán chết. Họ còn bắn đuổi theo dọa làm chúng tôi chạy té xấp té ngửa...”
Ðám người này vẫn chưa chịu vào bên trong nhà thờ để cha Sở xếp đặt chỗ ở. Họ cứ lớ ngớ nhìn ra đường, mỏi mắt ngóng chờ một người nào đó chạy tới để hỏi thăm tin tức nhà cửa của mình. Nhiều người còn có người nhà ở lại.
Và lạ lùng thay, không biết ở đâu chui ra, trong sân nhà thờ xuất hiện nhiều bộ mặt lạ. Họ như đã ở sẵn đây từ đêm rồi. Họ tản mát đâu phía sau khu vườn rộng, hay chính cả bên trong nhà thờ, lẫn trong dân chúng. Thái kéo tay tôi:
“Mình đừng đứng đây. Mấy người này sao thấy nghi quá.”
Hai chị em đi vào trong. Má tôi và bà cụ bên cạnh đều ngước mặt lên chờ đợi và nôn nóng hỏi:
“Có thấy chi không? Có nghe chi không?”
Tôi lắc đầu:
“Không thấy chi hết má. Bên ngoài yên lặng như thành phố ma vậy đó.”
Má tôi cắn môi, nuốt nước miếng, nhăn nhó:
“Biết rứa cứ ở nhà. Thà chết ở nhà còn hơn chết bờ chết bụi.”
Tôi còn biết lời gì để an ủi má tôi. Thu tới ngồi bên cạnh, thì thầm:
“Chị. Em biết có con đường tắt đi về nhà mình.”
“Họ gác ở hai đầu cầu. Không qua về được.”
“Ðường ni không phải qua cầu. Mình đi tới bờ sông, may ra có đò. Chỗ ni vắng lắm chị.”
“Không được. Ðừng có đi ẩu. Ðể coi người ta làm răng thì mình làm rứa.”
Ðến chín giờ sáng vẫn không nghe một tiếng súng nổ. Bên ngoài im lặng như tờ. Thình lình, có vài người chạy vào báo tin:
“Ðường đi được rồi. Bên kia sông, người ta đang tràn qua, nhiều lắm.”
Mọi người ùa ra. Tôi và Thái cũng chen chúc trong đám người cố ra khỏi cửa nhà thờ. Giữa sân, tụ tập tới mấy nhóm chạy loạn tới. Ðàn ông, đàn bà, bà già, con nít. Người đang hoa tay chỉ chỏ, kể chuyện, người khóc thút thít. Trẻ con nắm chặt áo người lớn với mặt mũi còn kinh hoảng thất sắc. Tôi chen mãi mới vào được bên trong, đứng gần một chị đàn bà:
“Chị ở mô chạy tới đây?”
“Tui ở dưới sân vận động. Nhà tui cháy rụi rồi.”
“Mới cháy?”
“Không. Cháy từ bữa qua lận. Không còn chi hết. Tui chừ tứ cố vô thân. Trời ơi là trời...”
Chị đàn bà khóc. Tôi hỏi tiếp:
“Ði đường thấy chi lạ không? Răng lại chạy tới đây?”
Chị đàn bà hỉ mũi, đưa tay quẹt nước mắt:
“Bữa qua dưới tui nhà ni cháy thì chạy qua nhà nọ. Họ tới đông lắm, không cho ai đi ra khỏi xóm. Sáng ni thấy có người chạy ngoài đường, mới chạy đại theo...”
“Họ để cho đi?”
“Họ chỉ bắt thanh niên thiếu nữ tập họp rồi đi khiêng người bị thương. Nghe nói có nhiều xác chết, phải đem chôn. Có rút đi mô hết, đang như kiến rồi biến như ma rứa đó. Giữa đường, thấy xác chết bất loạn.”
Ðang nói, thấy một người quen trong nhóm bên cạnh, chị nhào tới ôm chầm lấy, khóc bù lu bù loa:
“O ơi là o. Tan nát hết rồi o ơi...”
Người đàn bà lớn tuổi mắt rưng rưng, nhưng cố gắng an ủi hàng xóm:
“Khóc chi tào lao rứa. Có người ta có mình chớ. Mấy đứa nhỏ mô mà không thấy?”
Chị đàn bà lúc này mới nhìn quanh. Mấy đứa nhỏ con chị đang ngơ ngơ ngác ngác nhìn mấy người lớn khóc lóc, bàn tán. Chị túm mấy đứa con lại:
“Biểu đứng một chỗ không thì lại lạc. Nói không nghe... O ơi, tụi nó đây nì o. Từ bữa qua tới giờ chưa đứa nào có cái chi nhét vô miệng... Mà nhà cửa, bàn thờ ông bà ông vải cháy rụi rồi o ơi...”
“Còn thằng? Mô không thấy?”
“Tụi nó bắt rồi. Ði theo mấy người kia, không biết ra răng...”
“Con cháu tui cũng bị bắt đi. Nghe nói chỉ đi khiêng tải người bị thương rồi về. Hết việc thì về chớ giữ lại mần chi. Mình cứ cầu trời khấn Phật đi o nờ...”
Chị đàn bà vẫn khóc. Mấy đứa nhỏ níu chặt áo mẹ. Mưa phùn cùng nước mắt ướt đẫm mặt tôi. Tôi cần một chút không khí để thở. Lách ra ngoài, tôi gặp Thái đang nói chuyện với một người đàn ông cùng với gia đình của ông ta. Nhiều bọc lớn nhỏ, một đôi thúng gính đựng đầy đồ đạc lỉnh kỉnh. Người đàn bà chắc mới sinh, đứa bé còn nhỏ lắm, bọc trong một cái chăn cũ. Bà ta thở mệt nhọc, đứa con gái chừng mười một tuổi ôm đứa em trên tay, hết nhìn cha đến nhìn mẹ.
“Bác ở mô chạy về đây?” Thái hỏi.
“Tui ở trên Phú Cam. Trên đó tụi nó còn đông lắm.”
“Rứa răng bác chạy được?”
“Liều. Liều cậu ơi. Nhờ Chúa che mắt nên mới thoát được tới đây. Tụi nó đông lắm, chỗ mô cũng thấy tụi nó...”
“Bác có nghe tin tức chi không?”
“Cũng có nghe sơ sơ. Họ nói tụi giải phóng chiếm hết thành phố Huế rồi. Vài ba bữa nữa ông Hồ vô thăm ăn mừng chiến thắng. Họ nói ông Hồ mà vô đây, bà con được Bác phát gạo ăn không hết...”
“Ở đó mà có gạo. Cứt khô cũng không có. Từ bữa qua tới chừ gia đình tui mười một mạng chưa có hột cơm hột cháo mô trong bụng nì... Phách tấu...”
Người đàn ông vừa chen câu nói đeo kính cận. Xung quanh ông ta có năm sáu đứa nhỏ, đứa nắm áo, đứa nắm quần, kêu cha cha, con đói, mặt mũi méo xẹo, tèm nhem. Thái lại hỏi:
“Rứa chớ bác ở mô chạy tới đây rứa?”
“Bên tê sông.”
“Bên đó ra răng, bác?”
“Mấy ông vô tới nơi là khổ rồi. Bét mắt đã thấy họ đầy nhà, đầy vườn. Cha nào cũng ốm cà tong cà teo, đói đeo vàng hai con mắt mà toàn nói phách tấu không rứa. Người sống bấn loạn, người chết, người bị thương cũng bấn loạn, khiêng vất trong sân nhà người ta rồi vô nhà thấy chi cũng vơ cũng vét. Con trai con gái mới lớn bắt đi tải thương, chôn xác. Vô nhà kêu gọi nấu cơm cho quân giải phóng, mượn gạo, mượn mắm muối. Nói là mượn chớ cướp của dân thôi mấy ông mấy bà ơi... Nhà tui con đông, khi mô cũng trữ gạo, đồ khô, cá mắm. Rứa mà họ chở đi hết không chừa cho tui một nạm, còn nói phách, bữa mô Bác vô, gạo phát không cho dân... Ở nhà cũng chết đói, thôi liều mạng chạy qua đây xin cha gạo cứu mấy đứa con nít trước đã...”
“Dân bên đó chết nhiều không bác?”
“Thì bữa đầu đạn ở mô bắn như mưa. Chết chớ răng không chết. Sơ sơ tới sáng mùng hai, có mấy nhà chung quanh tui cũng mất sáu mạng...”
Thình lình một người đàn ông mặc áo măng tô đen đi tới. Cái áo măng tô thì dài mà người hắn thì ngắn nên cứ kéo phệt đất. Chắc chắn cái áo này cũng là của mượn thôi. Hắn hỏi:
“Bác từ đâu tới đây?”
Giọng ông ta lơ lớ không phải miền Bắc, cũng không phải miền Trung, khi thì như Quảng Bình hay Hà Tĩnh. Ông ta nhìn người đàn ông đeo kính gằm gằm. Người đàn ông đeo kính tránh luồng mắt của ông ta, cúi đầu. Mấy đứa nhỏ bíu chặt lấy người cha, sợ sệt. Thái bấm tay tôi. Chúng tôi lảng xa ra. Thái thì thầm:
“Thằng cha đó thấy khả nghi quá. Thôi đừng hỏi thăm nữa.”
Bây giờ trong các nhóm khác chạy vô sân nhà thờ, có những người bị thương được khiêng theo. Thái đẩy vai tôi:
“Chị đi vô trong đi. Ðứng đây cũng không làm chi được. Ðể em ở lại coi một lúc rồi vô sau.”
Tôi thấy nhiều người từ phía trong đang đi ra. Tôi tìm băng ghế của mình và ngồi xuống. Má tôi vẫn ngồi bó gối. Bà cụ già bên cạnh đang têm trầu. Những lá trầu đã héo, vôi đã khô. Ðứa em dâu đưa con cho tôi bế để ra ngoài tìm cách nấu cơm. Mấy đứa em tôi khi chạy loạn, bỏ lại hết, mỗi đứa đem theo một túi gạo. Nhưng tới trưa, đứa em tôi vẫn chưa thổi cơm được vì không có nước. Người ta bu quanh miệng giếng không còn chỗ chen chân, và vì nhiều người dùng quá nên các mạch nước rỉ ra không đủ cho những chiếc gàu chờ chực múc. Thái nhanh nhẹn ra xóm kiếm được mấy ổ bánh mì nguội đâu từ nhiều ngày và thịt hộp. Chưa bao giờ chúng tôi thấy những hộp thịt gà, hộp bơ, đồ viện trợ Mỹ quí giá tới như vậy. Ngày thường tôi không nuốt nổi mấy thứ này.
Trời đánh còn tránh bữa ăn. Tôi nhớ một câu các cụ thường nói. Vậy mà đang ăn nửa chừng thì tiếng súng lại nổ, nổ rất ròn rã ở phía bờ sông. Khu nhà thờ quay mặt ra đường lớn, phía trước mặt nhà thờ, bên kia đường là ruộng. Khu ruộng khá lớn, chạy dài tới tận con đường dẫn ra nhà dây thép. Phía sau lưng nhà thờ, cách một xóm nhỏ là bờ sông. Một nhánh của sông Hương, chảy từ Cầu Lòn, về tới Ga Huế, qua Bến Ngự, Phủ Cam, tới An Cựu và còn chảy dài xuôi về đâu nữa, tôi không biết. Càng về chiều tiếng súng thưa dần và vợ Bé nấu được nồi cơm. Chúng tôi không đem theo chén bát nên mỗi người phải lấy tay mình nắm cơm chia cho nhau. Nhưng khi nồi cơm vừa bày ra, thì cả chục bàn tay, cả chục miếng miểng, chén sứt mẻ chìa ra. Một lũ trẻ con đói ùa tới. Nồi cơm nhỏ phải chia năm xẻ mười... Phần còn lại chẳng được bao nhiêu, chúng tôi lại cứ nhường qua nhường lại. Rồi mỗi người cũng chia nhau ăn một ít. Hèn chi má tôi thường mắng chúng tôi mỗi khi hoang phí: hạt cơm là hạt ngọc của trời. Vợ Bé cạo nồi đưa thêm cho tôi một miếng cơm cháy nhỏ. Nhưng miếng cháy bị giựt và một đứa nhỏ chạy biến, lẫn vào đám đông nằm ngồi nghiêng ngửa.
Nhìn theo thằng bé, tôi chợt bắt gặp chị đàn bà ôm bọc vải. Chị ngồi dựa vào chân ghế, đôi mắt ngơ ngác thất thần thỉnh thoảng nhìn người này người kia rồi cúi xuống ôm chặt cái bọc vải. Chị ru con, ru hời ru hỡi.
Hai ông bà cụ già đem theo nhiều bánh tét và mức. Họ cũng gìn giữ kín đáo, và đang ăn với nhau. Ông cụ lén đưa cho tôi một khoanh bánh tét. Tôi định từ chối thì Thái đã vội cầm lấy, cám ơn. Một miếng ăn lúc này còn hơn cả vàng bạc, châu báu. Nào vàng bạc châu báu có bỏ vào miệng nhai được cho đỡ cơn đói đâu! Vừa cắn một miếng bánh, tôi bỗng dựng người lại. Hình như có người nào trong đám đông đem theo được cái radio chạy pin. Họ vặn âm thanh nhỏ lắm nhưng tôi cũng ráng nghe lõm bõm. Ðài Phát thanh Huế lọt vào tay họ. Tin loan báo Sài Gòn đã thuộc quân giải phóng...
“Miền Nam đã thua. Giải phóng toàn quốc.”
Giọng một thanh niên trẻ. Tiếng nói phát ra từ chiếc radio biến mất. Một giọng khác:
“Cất đi. Trời ơi là trời. Khổ lắm, đừng nghe, đừng nghe...”
Tôi chợt nhớ là lúc soạn đồ đem đi, tiện tay tôi có bỏ vào túi vải một cái radio nhỏ xíu. Nhưng hiện nó nằm trong túi vải nào thì tôi không nhớ. Ðã đánh thắng toàn quốc. Miếng cơm trong miệng tôi nghẹn cứng lại.
Ðêm thứ hai ở nhà thờ không khí và quang cảnh đã gần quen thuộc hơn. Một vài ngọn đèn dầu tim lửa thật nhỏ và đuốc chỉ được đốt một ngọn, mà tới 9 giờ tối phải tắt. Cả đèn dầu nhỏ cũng phải tắt hết.
Ðêm nay, mọi người xì xào nói chuyện nhiều hơn. Thái kể cho tôi nghe về những điều đã thấy được trong ngày. Ngay dưới sàn nhà thờ, phía dưới có một phần hầm thấp. Ở dưới đó người ta chen chúc nhau để giành chút an toàn, nhưng bẩn thỉu và hôi hám lắm. Ngay ở phía trên, nhà nguyện và nhà giảng, trần cao, thoáng mà chúng tôi còn không chịu nổi hơi người ta. Trẻ con ỉa đái tùm lum, cũng đã nặng mùi lắm rồi. Trong đêm, có thêm mấy người đàn bà chuyển bụng đẻ, chúng tôi nghe thêm được vài tiếng khóc vào đời. Tiếng khóc con trẻ làm tôi nhớ tới mấy đứa con tôi. Lúc này chúng đang ở Sài Gòn. Theo tin tức phát thanh của họ thì Sài Gòn cũng đã mất. Chồng con tôi ra sao? Có chạy loạn? Có ly tán? Trái tim tôi có lúc như bị bóp nghẹn, không thở nổi.
Cũng có lúc quá mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi. Nhưng cơn ngủ quá ngắn. Tôi bị đánh thức dậy bằng một tiếng la hoảng hốt, thất thanh:
“Chết tôi. Chết tôi rồi. Bà con ơi!”
Nhiều tiếng đồ vật rơi loảng xoảng. Vài tiếng kêu rú theo. Giọng kêu lúc đầu lại lớn hơn, khủng khiếp hơn:
“Việt cộng tới. Việt cộng tới. Ám sát. Giết người. Chúng nó tới.”
“Ðâu? Ðâu? Trời đất ơi, Việt cộng.”
Người ta chồm dậy, nhảy xuống đất, bám chặt nhau. Hốt hoảng, lá ó, kêu gào....
“Cha ơi, cứu chúng con. Chúa ơi!”
Ngọn đuốc trên bệ cao được đốt lên, chiếu lung linh hình bóng cha Sở.
“Bà con yên lặng. Chuyện chi? Chuyện chi xẩy ra?”
“Dạ thưa cha...”
“Dạ nghe la... Dạ có người la... Việt cộng tới.”
“Ai la. Ở đâu?”
“Dạ thưa cha. Ở đây. Dạ ông ni nì. Ông la quá.”
Vài ngọn đèn nhỏ được đốt thêm. Mọi người nhìn về hướng có tiếng nói. Chẳng thấy gì ngoài những chiếc đầu cao thấp lố nhố. Cha Sở kêu:
“Ai vừa la đó. Ðứng dậy coi.”
Một người đàn ông bị đẩy đứng lên trên ghế. Ánh đuốc chiếu tới, một khuôn mặt còn thất thần, giọng lập cập:
“Dạ con, cha ơi. Con nằm mơ, dễ sợ quá.”
“Thằng cha mắc dịch.”
Nhiều tiếng nguyền rủa. Người đàn ông nói tiếp:
“Nằm mơ thấy Việt cộng...”
“Trời đất. Thấy Việt cộng mà làm như thấy ma quỷ.”
“Còn hơn nữa tề.”
Ai đó nói. Một giọng cáu kỉnh:
“Mả cha cái thằng vô duyên. Mả cha thằng nào đạp vào bụng ông muốn phòi mỡ.”
“Tui cũng bị đạp trúng mắt.”
“Tui nì. Tui bị chân đá vô mặt. Tổ cha thằng mô con mô, tao biết tao bẻ cẳng.”
Một giọng đàn bà:
“Cha ơi! Nó còn la nữa. Cha đuổi nó ra ngoài.”
“Cho nó ra ngoài để nó thấy Việt cộng, cha. Làm người ta hết hồn.”
Nhiều giọng phụ họa. Nhưng cha Sở chỉ bảo mọi người im lặng và nên nằm xuống ngủ tiếp để lấy sức vì chưa biết chuyện gì còn xẩy ra nữa. Mọi người nghe lời. Nhưng cha Sở vừa đi thì thằng cha ngủ mớ làm người ta sợ đái ra quần không biết thấm thía chuyện gì mà bỗng ré lên cười. Tiếng chửi rủa lại nổi lên. Người đàn ông im bặt. Bên ngoài lạnh lắm, làm quá dám cái đám đông kia khiêng hắn vứt ra ngoài mưa đêm.
Nhưng không ai ngủ yên được. Trời chưa tảng sáng dã nghe tiếng quát tháo giận dữ của cha Sở. Lại ngồi dậy, lại lắng nghe. Từ bệ đá, cha Sở và đám thanh niên trật tự đang lôi ra một cô một cậu. Một thanh niên chỉ vào mặt hai cô cậu, có lẽ họ đang run.
“Chưa biết sống chết ra răng, còn làm chuyện tồi bại.”
Mọi người chen nhau đứng cả trên ghế để nhìn cho rõ mặt cặp thanh niên nam nữ. Một giọng nói phát ra từ đám đông:
“Ðánh chết chúng nó đi.”
“Ðuổi ra ngoài.”
“Ðừng trả áo cho nó.”
Cha Sở lại phải dàn xếp, làm đám đông dịu lại và đưa cặp nam nữ xuống nhà ngang. Cha sợ để ở lại đây cặp nam nữ kia sẽ không yên với đám đông đang căng thẳng. Mà xuống nhà ngang cũng là một hình phạt quá nặng rồi, ở đó, họ phải ngồi chung với những xác chết, may ra thì còn được ở chung với những người bị thương.
Cả một xã hội bát nháo đang thu nhỏ lại trong khu vực Dòng Chúa Cứu thế. Có kẻ sinh, người chết, có ganh ghét, phẫn nộ, hằn học mà cũng có thương yêu. Trẻ sơ sinh được cho nằm trên căn gác nhỏ. Người nào bị thương, bệnh, chết được khiêng xuống phía sân sau, trong dãy nhà thấp. Sự chung đụng gây ra nhiều vụ cãi vã, kiện tụng, kể cả đánh lộn. Nhiều người chạy loạn đã cạn lương thực. Cha Sở phải lấy gạo dự trữ của nhà thờ phân phát. Dù đã có một số thanh niên tình nguyện xung vào đội trật tự, cũng không sao ngăn cản nổi người ta giành giựt, đánh nhau lỗ đầu chảy máu để tranh bát gạo, miếng thức ăn. Giọng cha Sở không còn thanh, lớn như trước mà khản đặc lại. Cha đã hò hét, can thiệp, lo lắng quá nhiều cho đám đông chạy vào nhà Dòng. Gạo chắc cũng không còn bao nhiêu để phát tiếp...
Có một người không hề để ý tới gạo, tới thức ăn. Không xếp hàng, chìa tay lĩnh gì hết. Ðó là chị đàn bà ôm cái bọc vải, ngồi yên lặng ở một góc, chăm chỉ ru đứa con ngủ. Cả mẹ không ăn, cả con không bú. Cha Sở đem tới cho chị một vắt cơm, chị ăn cầm chừng, hình như rứt rứt từng hột cơm bỏ vô miệng nhai sẽ đỡ bớt cho chị một chút ray rứt chứ không phải để mưu cầu sự sống? Riết rồi người ta cũng mặc kệ chị, không ai thèm chú ý.
Ngoài đường cũng không còn người chạy loạn. Cả thành phố như chìm ngủ trong mưa phùn và giá lạnh. Cha Sở đã đóng cửa nhà thờ, chừng này người đã thiếu không khí để thở.
Qua ngày thứ ba, mọi người đang có chút hy vọng là mọi chuyện sẽ khá hơn thì ngay lúc gần sáng, mọi người đang ngủ bị dựng cổ dậy vì tiếng súng. Nhiều người đang nằm trên băng ghế lăn đại xuống đất, bất kể đè lên trên người khác. Tiếng súng nhỏ, rồi súng lớn. Ðoàng. Ðùng. Ðùng. Nhà thờ rung lên.
Ánh chớp của bom đạn, của lửa. Và choang, ầm, choang. Vài tấm kiếng trêm vòm nhà thờ vỡ. Lúc này thì không đủ gan lì để nằm ráng trên băng ghế được nữa. Tôi cũng lăn hay té xuống giữa những hàng ghế. Người nằm phải lồm cồm ngồi dậy để khỏi phải chồng lên nhau. Thái đã kéo má tôi lọt vào giữa. Bom đạn bên ngoài càng ngày càng bắn rát, dữ dội. Chúng tôi cứ ngồi khít lên nhau, ôm chầm lấy nhau, cận kề cái chết cho tới sáng thì biết còn sống vì tiếng đạn thưa thớt dần rồi dứt.
Nghe ngóng, chờ đợi một lúc, tôi và Thái cùng vài người nữa bạo gan đi ra ngoài. Con đường dẫn ra bờ sông hôm nay đầy rác rưởi, dơ bẩn như một cánh tay của một tử thi đã rữa nát dưới mưa gió, còn muốn chuồi tới bến sông để rửa ráy. Nhiều ngôi nhà sập, nhiều nhà cửa, cây cối cháy rụi.
Ði vào một xóm nhỏ. Nhà cháy, nhà bay nóc, mất cửa. Vài xác chó xác mèo nằm trơ trong sân. Không có bóng người. Tôi lặng lẽ kéo Thái trở về nhà thờ. Có lẽ chỗ này là còn yên ổn, ít nhứt trong thời điểm này.
Khi chúng tôi trở về thì có một số người còn đi nữa. Họ tìm tòi trong những nhà bỏ trống ít gạo, ít bánh chưng bánh tét trên những bàn thờ còn nguyên. Họ cũng đem về xác vài con gà con vịt đã chết. Ba bốn người khiêng được xác một con heo. Họ đưa ra giếng, mượn đồ nhà bếp của nhà thờ, cạo lông, làm thịt. Bé cũng phụ làm heo, được chia phần. Thịt được cắt nhỏ, kho với muối. Nhà thờ chẳng còn gì ngoài muối.
Tiếng súng chỉ ngưng được một lúc rồi lại bắt đầu. Nhưng không dồn dập mà từng chặp, từng chặp, cho tới trưa. Cô em dâu của tôi cũng ra giếng lấy nước nấu một nồi cơm nhỏ. Nhưng khi đem vào, chúng tôi không dám bày ra mà dấu dưới gầm ghế, lâu lâu thò tay vắt một vắt nhỏ chia nhau ăn. Ðám trẻ con đói nhiều quá. Tôi đổi mấy vắt cơm lấy nửa đòn bánh tét của bà cụ “hàng xóm”. Không cầm lòng đặng, Thái cắt mỏng từng lát bánh tét chia cho lũ trẻ con, nhưng cũng không thấm đủ gì.
Buổi trưa tiếng súng bỗng nhiên im bặt. Trong mắt mọi người có hy vọng. Nhưng chút hy vọng đó tan biến như mây khói khi từng loạt đạn dấy lên. Ðạn bắn đâu gần lắm, như từ phía ruộng trước mặt, từ hai bên hông nhà thờ, từ phía sau. Nhà thờ rung lên và vòm kính trên nóc tiếp tục vỡ. Mỗi lần một tiếng nổ lớn, một tiếng kêu choang là kính rơi xuống như mưa đá. Má tôi lấy cái mền bung ra, trùm kín đầu con cháu, sợ miểng kính rơi trúng tét đầu. Nhưng Thái bị tới mấy mảnh kính cứa cổ tay, cứa vai, máu chảy thấm áo đỏ lòm. Thuốc thang không có, má tôi lấy mớ thuốc rê đem theo để ăn trầu rịt vào vết thương cho Thái. Cũng may em Thái khỏe mạnh, quen dãi dầu mưa nắng nên vết thương cũng chỉ làm đau rát chút đỉnh mà thôi.
Chừng hai tiếng đồng hồ sau, tiếng súng dồn dữ dội về phía sau nhà thờ, ở bên kia sông. Thái thì thầm cho tôi biết đó là loại súng A-ka của Liên Xô mà Việt Cộng thường dùng. Tiếng đạn A-ka sắc, ngọt, giết người cũng lẹ làng. Hai chị em tôi co quắp bíu chặt nhau. Tấm mền má tôi trùm đầu làm nghẹt thở quá. Nếu lúc đó tiếng súng không ngớt bớt, tôi không thò đầu ra khỏi, chắc cũng chết ngộp.
“Có vẻ yên hơn, chị. Ðể em ra ngoài.”
Thu cản:
“Ê Thái. Ðừng. Ðừng vội. Nghe hình như...Nghe đã tề...”
Phía bên ngoài cánh cửa nhà thờ, có nhiều tiếng ồn ào. Tiếng đập cửa, tiếng kêu cứu:
“Cha ơi. Cứu chúng con. Cứu chúng con...”
“Cứu người. Cứu người...”
“Ðừng mở. Chật quá rồi cha ơi.”
Cha Sở đang bế một đứa nhỏ bị thương vì miểng kính, nghe kêu, cha đưa đứa nhỏ cho một thanh niên trật tự đứng bên, mở cửa, chạy băng ra ngoài.
Người ta ở bên ngoài tràn vào như giòng nước lũ. Ðâu mà nhiều thế. Hết chỗ. Họ đứng sát vào nhau. Nhiều người bị thương vô tới là ngã lăn ra đất. Ðám đông cũ bị bắt buộc dồn cục lại, nén chặt lui phía sau. Cha sở lại phải hô hào, dàn xếp. Rồi đâu cũng vào đó. Cả cái bệ để cây đuốc, nay cũng có người leo lên nằm ngồi. Sát bệ đặt tượng Chúa và Thánh giá, con nít bò lổn ngổn.
“Khóa cửa lại. Hết chỗ chứa rồi.”
Ðám người cũ, đám người mới hỏi han nhau. Chỉ biết được là Việt cộng tới đông lắm. Bên kia sông bắn nhau dữ lắm. Nghe nói quân lính mình đã tới... Nghe nói đánh nhau ác liệt nhưng có lính mình và lính Mỹ, ai cũng mừng, đã có tiếng hoan hô reo vui.
Cha Sở lại đẩy cửa bước vào. Theo sau lưng cha có hai người lạ. Một nam một nữ, họ là người da trắng. Ðám đông lại xôn xao:
“Mỹ tề. Mỹ phải không?”
“Mỹ chi mà lùn tịt. Thằng Tây ni lùn tịt. Tây đó.”
Người đàn ông đứng tuổi quần áo sốc sếch, râu ria xồm xoàm như con đười ươi trong rừng chạy lạc về phố. Tay họ cầm cờ trắng có viết chữ “báo chí”. Cha Sở nói chuyện với họ bằng tiếng Pháp. Thì ra, đây là hai phóng viên của một tờ báo ngoại quốc. Người đàn ông còn có chút bình tĩnh, nhưng người nữ phóng viên thì trên mặt còn đầy nét sợ hãi. Mọi người bu tới coi. Con nít chui dưới chân người lớn, kêu réo với nhau:
“Bây ơi! Tới coi ông tây bà đầm.”
Bọn trẻ nít này đâu khác gì tôi hồi còn thơ ấu. Những người da trắng tới xứ sở Việt Nam, coi như là người rớt từ trên mặt trăng xuống. Tôi cũng có mặt trong đám con nít đi coi ông tây bà đầm. Nhưng ông tây bà đầm hồi đó oai hơn nhiều, đâu có nhếch nhác như hai người chạy loạn này. Cha Sở nói chuyện nhiều lắm. Một lúc sau người nữ phóng viên đã bớt sợ, cô ta đưa máy ảnh lên bấm lia lịa:
“Ê, coi nó chụp hình. Chụp hình.”
Con nít thích chí chui tới đứng dàn ngang. Nhiều người lớn che mặt.
“Báo chí đó. Nó đăng báo có cái mặt mình...”
Chụp đám đông. Chụp người bị thương. Chụp con nít. Người đàn bà có đôi mắt chưa hết thất thần chăm chăm vào ống ảnh. Những đứa con nít nhay nhay vú mẹ mãi mà không có sữa, ngó cái ống ảnh, nhả vú mẹ ra rồi khóc ré lên... Ống máy ảnh đưa về phía tôi. Thái đứng dậy dùng cả cái lưng che khuất, lớn giọng:
“Còn chụp với chiếc gì...”
Nó đưa tay ra dấu muốn đập bể cái máy ảnh. Cô nữ phóng viên cười muốn làm thân. Họ đi lên gác chụp tiếp mấy sản phụ và hài nhi rồi xuống nhà giảng, đưa máy ảnh bấm liên tiếp.
Cũng liên tiếp lúc đó có tiếng súng nổ. Mọi người lúc đó mới nhận ra nguy hiểm của sự có mặt hai người này. Việt cộng sắp tới đây rồi. Chúng thấy hai người da trắng sẽ nghĩ là Mỹ và sẽ ra tay tàn sát. Vậy là họ nhao nhao đòi cha Sở phải đuổi hai người này ra khỏi nhà thờ.
“Cha ơi. Ðuổi chúng đi.”
“Lấy máy ảnh của nó.”
“ Không cho chụp nữa. Ði đi.”
Cha Sở biết được sức mạnh của đám đông, nên đưa hai người ra khỏi khu nhà nguyện, kiếm một chỗ khác cho họ. Nhiều tiếng thở phào nhẹ nhõm.
“Nó đi rồi.”
“Chết tới nơi không lo, còn đưa máy hình bám lia bấm lịa...”
Tiếng nói chưa dứt thì một tiếng rú nổi lên. Chị đàn bà ôm cái bọc ngồi trong góc. Một đứa nhỏ đã nghịch kéo cái bọc vải của chị ta. Chắc nó nghĩ có đồ ăn trong đó. Chị giằng lại được cái bọc.
“Con ơi là con ơi!”
Chị rờ rẫm cái bọc:
“Con ơi, con có đau lắm không? Con đừng... Con đừng bỏ mạ... con ơi! Ngủ đi, ngủ đi mạ ru nì... Ầu ơ... Người ta đi có đôi có bạn, mạ đi một mình chạng vạng tới nửa đêm...”
Chị ta nói ra miệng câu gì cũng là thơ hết. Cái bọc gì trong tay chị ta vậy? Sao không rời khỏi tay? Nó là bọc quần áo, là con búp bê, là...?
Nhưng rõ ràng chị ta là người không còn tỉnh trí nữa.
Buổi chiều cha Sở trở lại. Cha bảo mọi người im lặng, giọng nghiêm trọng:
“Bà con đừng có chộn rộn. Tình hình không khá như mình tưởng mô. Có tin quân Mỹ kéo lên ở quốc lộ 1. Nhiều nơi đang đánh lớn.”
“Cha ơi, chừ chạy đi mô, cha?”
“Không chạy đi mô hết. Nhưng phải lo phòng bị, lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt đầu từ bây giờ phải dọn chỗ lại sạch sẽ, thứ tự. Mình sẽ chia ra nhiều ô để ở, để săn sóc giúp đỡ nhau... Nghe tôi nói đây. Bà con lúc này phải thương xót nhau, đùm bọc nhau để cùng thoát hoạn nạn..”
Cha Sở nói là làm liền. Những hàng ghế được quây lại làm hàng rào từng khu. Mỗi khu gồm mười gia đình. Cha sở sẽ lấy kho gạo sau cùng phát vào ngày mai. Cha cũng kêu gọi thanh niên nam nữ, những người còn sức lực tổ chức đội trật tự, đội cứu thương. Chị đàn bà ôm cái bọc được đưa tới trong khu cùng gia đình tôi. Ai cũng còn gia đình, nhưng chị thì lẻ loi. Chị ngồi sát bên Thu. Mấy đêm rồi chị đâu có ngủ nghê gì nhưng sao chị không ngã gục? Chị ta đã điên? Cũng không sao, chị ta điên và hiền lành.
Nhờ tài tổ chức của cha Sở mà chúng tôi có chỗ riêng, thoáng hơn. Có thể đi lui đi tới chứ không bị bó chân bó cẳng như trước. Mỗi ngày chỗ ăn ở được phát chổi để quét dọn, trẻ con được đưa vào kỷ luật cũng bớt phá phách nghịch ngợm. Tuy mùi nước tiểu trẻ con không thể tẩy được nhưng mọi người cũng đã quen, không khó chịu tới muốn ói mửa.
Có lúc tôi rủ Thái đi xuống nhà ngang. Nhưng gặp nhiều xác chết mới đặt ở đây vì chỗ chứa xác đã kín đầy. Trong mấy khu chia nhau ở bên trong nhà thờ, cũng có vài người bỏ mạng vì vết thương, vì bệnh mà không có thuốc.
Buổi tối lại có người bệnh nặng ngay sát khu bên cạnh. Một người đàn ông nằm quằn quại dưới đất. Tôi chồm qua dãy ghế nhìn. Mới hồi chiều tôi thấy ông ta còn tỉnh táo, còn ngồi ăn mấy miếng bánh mì khô mà. Bây giờ ông ta trợn mắt, chỉ thấy tròng trắng, lăn lộn, sùi bọt mép, nhưng khuôn mặt biến đổi bất chừng, khi như kéo một nụ cười, khi như kéo một cái mếu.
“Chị ơi, ông nớ mầm răng rứa?”. Thái hỏi.
“Khi không ba hắn nổi điên. Ai mà biết.”
“Ðiên khi mô. Hồi chiều em thấy ông ngồi ăn bánh mì khô mà.”
“Thì vậy. Hắn chạy tới đây với thằng con trai bị thương. Hồi chiều thằng con chết rồi, xác còn để ngoài nớ tề...”
Một người kể:
“Hắn nói nhà hắn giàu, có nhà lầu xe hơi. Vợ hắn chết ngay bữa đầu. Hắn ôm thằng con chạy. Mấy bữa ni hắn tiếc của cứ than hoài. Chừ con hắn chết luôn nên hắn nổi điên.”
“Tội nghiệp quá hỉ?”
“Mạng người không tiếc, còn tiếc của cải. Ðiên chi mà ngu rứa trời.”
Người đàn ông đang lăn lộn, bỗng kêu lên:
“Lạy mấy ông đồng chí....Dạ...không phải, dạ giải phóng. Xin đừng đốt nhà, đừng đốt xe...Lửa. Lửa dễ sợ quá… Lạy các đồng chí... tha cho cái nhà, cái nhà...”
“Thằng cha kỳ khôi chưa. Răng không xin cho vợ, cho con mà cứ cái xe, cái nhà...Thiệt là quả báo chi đây...”
“Lấy khăn bịt miệng thằng cha lại. Tụi nó vô mà nghe được là chết hết đó...”
Thái kéo tôi về chỗ:
“Chị ngủ sớm đi. Em kiếm được chiếc chiếu, dấu dưới ni nì...”
Thái lôi chiếc chiếu dưới gầm ghế ra trải. Má tôi yên lòng ngả lưng. Mấy đêm rồi, bà cứ dựa lưng vào tường, vào ghế mà ngủ gà ngủ gật. Mắt má tôi sâu hoắm và có quầng thâm thật đậm.
Người đàn ông đã hết chịu đựng, điên luôn rồi. Ðêm, ông ta cứ la như cháy nhà. Nhưng mọi người quá mệt mỏi, cũng đã quen dần không thấy còn chi lạ để coi. May mà ai cũng chợp mắt được một lúc, vì gần sáng, tiếng súng lại nổ inh tai. Tôi muốn nhỏm dậy, má đè đầu tôi xuống:
“Súng đó tề. Ðừng trồi đầu lên nó trúng.”
Tôi nghe rõ rồi. Tiếng đại bác ở đâu câu tới rất gần. Lâu lâu điểm một vài tràng súng nhỏ. Rồi có tiếng xe chạy ngoài đường. Thái nằm sát tai xuống sàn nhà, nghe ngóng:
“Tiếng xe thiết giáp đó chị. A... có xe tăng. Xe tăng nữa...”
Mặt đất rung chuyển mỗi khi có đoàn xe chạy qua. Mỗi lần có tiếng xe là có tiếng súng nổ liên hồi. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Má tôi không ngớt cầu nguyện....
Buổi tối hôm trước tôi chỉ ăn có một lát cơm vắt nhỏ nên sáng hôm sau, bụng đã đói cồn cào. Bé và Thái đi lĩnh gạo. Vợ Bé và Thu lo đi nấu cơm. Phải nấu cho sớm, chớ ai biết lúc nào bom đạn tới. Thái còn đùa được:
“Mấy bà nấu cơm, nếu có đánh nhau chạy cũng mang theo nồi cơm mà chạy nghe.”
Cố mà đùa để kiếm vui, nhưng ai mà cười nổi. Nấu được một nồi cơm cũng không phải dễ. Có gạo nhưng kiếm củi ở đâu. Có mấy ngày mà củi trong nhà thờ hết sạch. Người ta bẻ cả cành khô, vơ cả lá rụng, bẻ cả thân cây còn tươi, nhưng với chừng đó người, mọi thứ trong nhà thờ không cung cấp nổi. Thái tính đi ra ngoài xóm kiếm củi thì tiếng súng bên kia sông bắt đầu nổ lớn. Mọi người vội bỏ của chạy lấy người vào trốn bên trong nhà thờ. Chờ ngớt bớt tiếng súng, Thái liều lĩnh đi ra xóm kiếm được mớ củi. Vợ Bé và Thu lại dè dặt ra ngoài nấu cơm. Ðạn lúc này đã bắn vào phía nhà thờ. Má tôi lo lắng:
“Ra kêu mấy đứa vô. Còn nấu nướng chi nữa.”
Rồi nồi cơm cũng chín. Vợ Bé như đã phải chạy một mạch với nồi cơm vào bên trong, thở hổn hển:
“Dễ sợ quá. Từ bếp chạy vô đây mà đạn nó rượt sau lưng nè.”
Nó nhỏ giọng:
“Bác. Con nghe nói bên An Cựu nhà con, nhà Bác họ tràn vô chiếm ở hết rồi. Mà bác ơi, nghe nói Việt cộng cũng ở đầy xung quanh chỗ ni rồi.”
“Trời ơi là trời!”
Tôi biết má tôi đang lo lắng về nhà cửa. Bàn thờ ba tôi vừa bày xong những ngày cuối năm còn mới toanh, nằm lạnh lẽo không nhang không khói. Lòng người vợ hay chồng già dù cách biệt âm dương vẫn nặng nghĩa tình với hương khói phụng thờ. Thấy má tôi sụt sùi, Thái ôm vai:
“Bác. Thôi ăn miếng cơm cho chắc bụng đã bác ơi. Con cũng sốt ruột quá nì bác. Mạ con, em con đang ở dưới Bao Vinh không biết ra răng.”
Rồi nó tiếp:
“Ðể con coi yên yên con về dưới nớ.”
Má tôi mếu máo:
“Chưa yên mô con ơi. Súng đạn mô có con mắt con nờ. Ðừng bỏ bác nghe con.”
Thái ứa nước mắt:
“Con mô biết chuyện tọa họa như ri. Con mà có súng con nhứt định chạy ra ngoài đường, tìm lính mình để cùng đánh nhau với tụi nó.”
Bé kêu nhỏ:
“Thái. Mi đừng nói ẩu. Ở đây... không phải là không có... Bụi tre có lỗ tai nghe, lỡ miệng là khổ...”
“Thôi ăn đi.”
Cũng không ăn được. Ðúng lúc đó lại ầm ầm tiếng súng. Kính lại rơi vỡ loảng xoảng. Mọi người nằm sát xuống đất. Thái dúi tôi vào dưới hàng ghế rồi đưa cả cái lưng đỡ cho má tôi. Nhưng may mắn, chỉ một lần kính vỡ, chưa kịp làm ai bị thương thì tiếng súng đã hướng về phía khác. Tôi ngạc nhiên khi nhận ra có cả tiếng súng như từ trong sân, sau dãy hàng rào nhà thờ bắn ra nữa. Vậy là họ đã tới nơi!
Chúng tôi chịu đựng sự kinh hoàng như vậy chừng nửa tiếng đồng hồ. Chỉ nửa tiếng thôi sao? Nó dài như cả thế kỷ, nó làm tất cả mạch máu căng kéo ra, bao lần muốn đứt. Rồi cũng còn sống!
Chúng tôi đã mở mắt, đã nhìn thấy nhau. Người đàn ông điên cơn sợ đã làm bớt điên, ngồi co ro. Bà cụ già dựa vào người chồng già hồng hộc thở. Coi chị đàn bà ôm cái bọc vải kìa. Chị nép sát vào tôi từ lúc nào vậy? Một mùi hôi thối xông lên làm tôi muốn nôn ọe. Cái mùi hôi này sao bây giờ tôi mới nhận ra. Cái mùi hôi thối kinh hoàng quá. Nó là mùi thịt rữa, mùi chuột chết, mùi mồ hôi... mùi mắm thúi? Không phải, hình như tất cả các thứ mùi đó hỗn hợp lại! Không phải chỉ riêng tôi, mà má tôi, mà Thái, mà mọi người cũng vừa nhận ra cái mùi nồng nặc đó rồi. Thái chồm người muốn kéo cái bọc. Người đàn bà né tránh đưa cái bọc sang bên. Có lẽ vì mạnh tay quá, cái bọc tung ra, trong cái bọc thò ra một bàn chân trẻ con nhỏ xíu, nứt nẻ, bầy nhầy. Một dây nước vàng sền sệt rơi xuống sàn thành một vũng nhỏ. Mùi thối xông lên nồng nặc hơn, khủng khiếp hơn. Tôi hoa cả mắt, choáng váng muốn xỉu. Bỗng nhiên tôi la lớn một tiếng. Tôi cũng không hiểu vì sao tôi la.
Người đàn bà cũng la lên một tiếng lớn hơn, ngay sau tiếng la của tôi. Tiếng la của bà ta giống tiếng kêu của một con thú bị giết. Tiếng gầm rú của con thú tuyệt vọng cùng với tiếng súng nổi lên bên ngoài làm tôi tỉnh người. Mặc tiếng súng. Mọi người đổ dồn về người đàn bà, về mùi hôi thối, về cái xác chết trẻ con đã quá lâu. Một người đàn ông tiến tới trước mặt bà ta:
“Ðưa đây.”
Con thú đã hết sức hết hơi, đã thôi không vật vã mà yếu xìu:
“Ðừng. Ðừng mấy ông ơi. Con tui. Nó còn sống, còn thở. Con tui mà... Con ơi... ngủ đi con, ngủ đi con...”
Người đàn bà cố đưa đưa cái bọc, nhưng nhấc tay không lên. Tiếng hát cũng đứt quãng vì tiếng thở gấp gáp. Bà ra đã đói quá.
“Ðưa đây.”
Một người đàn ông đưa tay, chưa kịp đụng tới thì cái bọc tụt mép vải. Một vật rơi lăn theo tấm vải bung, mép vải vẫn còn giữ chặt trong tay chị. Xác một hài nhi rơi xuống nền nhà. Ðứa bé đã chết từ lâu, không còn hình hài nguyên vẹn mà chỉ là một đống thịt đang rữa nát, rịn nước mủ.
Những người xung quanh kêu rú lên. Thu lùi lại ôm lấy mặt. Má tôi quay đi. Nhưng chị đàn bà thì khác, như vừa sắp ngã vật xuống vì đói, vì hết hơi sức, chị bỗng nhào tới xác đứa bé. Chị dùng cả tấm thân chị chồm lên thân hình đứa trẻ. Ðôi mắt lạc thần bỗng như rực ánh, chị như chồm hổm như sẵn sàng vồ, cắn xé nếu ai đụng đến đứa con đã chết của chị.
“Lấy đứa nhỏ đi. Thúi quá.”
Người ta kéo chị ra. Chị vùng vằng, nhe răng. Nhưng chị có bao sức nữa. Miệng thì thào:
“Ðừng mà. Con tui. Con của tui mà.”
Người đàn bà bị kéo ra một góc và nằm bẹp dí. Nhưng bà ta đưa cặp mắt nhìn mọi người như van xin, lạy lục, rồi bà lết tới, lết tới. Bàn tay của bà đã đụng được bàn chân của xác đứa con. Rồi chị ôm chặt cái chân nhỏ bé nhầy nhụa, hôi hám, chị rên lên:
“Con đây rồi. Con mô có bỏ mạ.”
Cái miệng chị méo xẹo. Khóc hay cười? Chị nhìn lên nóc nhà thờ, đôi mắt lại đờ đẫn, thất thần, lạc điệu, như không nhìn thấy gì nữa hết, mà đã lọt ra ngoài vòm trời bên ngoài.
“Kéo mụ ta ra đi. Trời ơi, coi tề...”
“Con ơi. Mạ ôm con nì. Răng mà con dơ quá rứa. Ðể mẹ chùi cho con...”
Cái miệng của bà đưa tới ngón chân nhỏ xíu, lở lói. Cái lưỡi chị đàn bà đưa ra, liếm láp ngón chân, bàn chân. Tôi muốn xỉu. Thái đỡ tôi:
“Chị đừng nhìn nữa. Chị đi ra chỗ khác đi.”
Tôi không cất bước được. Sự thống khổ quá mức của người đàn bà cũng làm tê liệt thần kinh tôi.
“Ði kêu cha. Báo cho cha biết.”
“Kéo con mụ ra. Mấy chuyện ni không cần cha phải lo. Mấy anh em trật tự mô hết rồi?”
Hai người giữ chặt chị đàn bà. Mấy thanh niên lấy một cái áo cũ bọc kín xác đứa bé. Giọng chị đàn bà òng ọc như con heo bị cắt tiết.
“Con ơi, con không bỏ mạ mà. Con ơi, con khóc đi, khóc lớn đi cho mạ dỗ... Khóc đi, khóc đi con ơi! Trả lại cho tui, trả lại con tui cho tui... trả lại... trả lại...”
Ðứa nhỏ đã được đem đi. Người ta không giữ chị nữa. Vừa được thả ra là chị bò, chị lết, chị khóc, chị kêu. Cha Sở lại tới:
“Ðóng chặt cửa. Không ai được ra ngoài. Ðang đánh nhau dữ lắm.”
Lúc đó cái điệp khúc “trả con tui lại cho tui, trả lại cho tui, trả lại con tui” mới lùi xa trong đầu tôi, và tôi như choàng tỉnh vì tiếng súng bao quanh bốn bề. Người đàn bà lết theo dưới chân cha Sở mà không ai để ý. Khi cha ra ngoài, đóng cửa lại thì chị cũng lết ra ngoài luôn rồi.
Ra đến ngoài như có không khí, thở được nhiều, cơn đói bị đẩy lui bớt hay sao mà giọng chị gào thét lại thi đua được với bom đạn. Chị chạy đi đâu? Chị ra sao rồi? Chỉ thoáng một cái, tiếng của chị hoàn toàn im bặt trong tiếng súng càng lúc càng hỗn loạn.
Tôi vẫn còn bị chôn chân ở chỗ đứng đó. Ðứa bé không còn. Người mẹ khốn khổ cũng không còn? Nước mắt tôi chảy ràn rụa trên mặt tự lúc nào. Tôi lại nghe vang trong đầu điệp khúc đòi con của người mẹ. Bom đạn nuốt bà mất rồi sao? Nuốt giùm bà đi, vì bà đã gửi sự sống theo đứa con rồi. Chúc mẹ con sớm gặp nhau.
Người ta quên chị đàn bà ngay sau đó. Bây giờ không chỉ súng nhỏ nổ rền mà cả súng lớn cũng tới tấp nữa. Ðại bác. Bom chơm. B 40. Aka. Mọi tiếng súng dữ dằn nhất dùng để hủy diệt con người đang dồn tới thành phố Huế nhỏ bé, hiền lành, đang đổ xô vào khu nhà thờ mọi người dùng cầu nguyện. Choang. Choang. Mấy miếng kính màu trên vòm nóc nhà thờ còn sót lại, vỡ tan, rơi xuống làm một trận mưa kính bên trong.
“Ở đây nguy quá rồi, bà con ơi!”
Ai đó la thất thanh. Cảnh hỗn loạn tìm nơi trốn núp. Tiếng xô đẩy, tiếng chửi rủa nhau. Có nhiều người chui xuống dưới lớp người khác đang nằm đè nhau để núp trốn. Có người kéo một người khác dưới ghế nguyện để lấy chỗ cho mình. Nhưng đâu cũng không yên nữa. Cả khu nhà thờ rung rinh, trêm vòm rực lửa, cả gạch, ngói, bụi khói như một tấm lưới dày chụp xuống.
“Chạy. Chạy bà con ơi.”
“Mạ ơi, con bị rồi...”
“Anh ơi, con nó...”
“Trời ơi, chồng tui... Bà con ơi, cứu, cứu...”
Tiếng kêu khóc nổi lên bốn phía. Người ta xô đẩy nhau, níu kéo nhau. Dồn góc này, chui nhủi góc kia. Ầm. Ầm. Kêu la. Nhắm mắt. Chết thật. Chết giả. Sợ tới chết. Cây thánh giá gỗ từ trên tường bay xuống. Cây thánh giá đã có máu của chúa, không thấm thêm máu của ai. Nhưng kính, gạch, đá, bắn tứ tung, gây nhiều thương tích. Một người đàn ông dựa đầu vào cây thánh giá đã nằm yên dưới nền nhà, cái đầu bể nát vì gạch đá nghẹo sang một bên. Anh ta mở đôi mắt an nhiên nhìn mọi người.
Tôi có bị thương ở đâu trên người không? Má tôi, Thái, các em tôi có đứa nào bị thương không? Trên quần áo mọi người đầy máu, máu của mình, máu của người. Một tia máu bắn cả vào mặt tôi, vào mắt tôi làm tôi phải nhắm mắt lại. Tôi bị rơi vào bóng tối và như thấy tử thần đang giang tay ra, đòi dắt đi.
“Chị bị rồi, Thái ơi!”
“Không phải chị mô. Máu của người ta.”
Thái xé vạt áo sơ mi để lau mặt cho tôi.
“Con ơi. Con mô rồi?”
“Má, má mô? Mô rồi?”
Tôi quờ quạng. Tay tôi đụng cổ má tôi. Da bà còn mềm, còn ấm. Thái vẫn cố quệt lau tiếp trên mặt tôi. Dù hai mí mắt rít chịt, tôi cũng cố mở, và bám áo Thái để bước theo.
Không biết hai cánh cửa gỗ dày chắc chắn có khóa chặt hay không, mà chỉ cần đoàn người vừa ùa tới là đã bị đẩy tung, rệu rạo. Hình như không cần phải bước, thoáng cái chúng tôi đã bị đẩy ra tới sân. Nhưng ra tới sân, chúng tôi lại lạc vào giữa cơn bom đạn. Bầu trời đầy những lằn sáng như sấm sét, bốn phía tiếng rít của đạn, trên đầu tiếng dội của bom. Nhiều người ngã xuống. Tiếng kêu khóc như ri.
“Trở lại. Trở lại.”
Xô đẩy, chen chúc, đạp lên nhau để trở vào bên trong còn vất vả, khó nhọc hơn lúc đẩy cánh cửa gỗ mà ra ngoài. Chúng tôi cứ bị xô dạt lui xô dạt tới, và nhà thờ ba phía cửa mở toang hoác, bên trong trống hốc in cả một khoảng trời.
Chúng tôi tìm được một khoảng tường. Nhưng chưa định hồn, đám người đã ùn tới, lại xô, lại đẩy, uýnh lộn, giằng kéo. Chúng tôi lại phải chạy, nhắm mắt nhắm mũi mà chạy. Khi mở mắt ra, chúng tôi lại trở vào được bên trong nhà thờ. Bây giờ cũng chỉ còn mấy mảnh tường sụp đổ, một nửa mái nhà thờ đã mất tiêu. Thấy không an toàn, nhiều người lại kéo nhau chạy ra, họ tràn xuống nhà ngang, nhà bếp, phía sau vườn, bên giếng nước. Ở đâu chỉ cần có một vật chắn là có người ẩn núp. Không còn ai có thể cứu ai, lo cho ai lúc này nữa.
“Ở đây là chết. Bác, mình phải chạy.”
“Còn chạy đi mô chừ con ơi!”
Má tôi rên lên rồi òa khóc. Một tiếng rú. Một người ngã. Một tiếng kêu cha kêu mẹ. Một người nữa bị thương. Cứ vậy, bên này bên kia, góc này góc nọ. Ầm. Một tiếng nổ ngay trên đầu chúng tôi. Không biết chúng tôi đã chạy hay bị ném ra ngoài. Chỉ biết cắm đầu chạy giữa các lằn đạn xé trời, đổ rạp cây cối, xớt ngọt con người.
Cũng có lúc súng đạn biết mệt, biết nghỉ ngơi. Tôi ngồi phệt xuống. Ụt ụt ụt. Tôi ngồi lên một con heo bị thương và con heo đau đớn chửi lại tôi, hất tôi xuống đất. Lúc đó tôi mới có chút thời gian coi lại mình. Quần áo tôi ướt đẫm máu đỏ. Má tôi, Thái và mấy đứa em áo quần cũng nhuộm máu đỏ nhiều hơn đất cát. Nhưng may mắn chưa ai bị vết thương nào đáng kể. Thái bị thêm vài mảnh kiếng cắt ở cổ, ở cánh tay. Còn tôi, một ngón chân bị bị sướt, dập. Nhưng chút đau rát đâu có thấm thía gì với cảnh chết chóc đau đớn xung quanh. Tôi đã mất luôn đôi dép lúc nào không biết. Chẳng ai còn một đôi dép trong chân, kể cả má tôi. Nhưng Thái vẫn ôm ghì bọc gạo và bình nước. Má tôi vẫn còn cái bọc quần áo.
“Còn bọc quần áo của chị và của em đâu? Há? Ðâu?”
Tôi đã thả rơi ở đâu. Lúc nào. Nhớ gì nổi. Thây kệ. Không được. Thái chạy trở lại và tìm ra.
Súng đạn nghỉ lấy hơi xong rồi lại bắt đầu lẻ tẻ lên tiếng. Mọi người bàn nhau, cứ chạy ra phía bờ sông. Còn nguồn tin Mỹ và lính Cộng hòa đã ở bên kia cầu. Bên kia cầu mới là hy vọng. Thì cứ đi tới.
Quả là phía bên kia sông có yên tĩnh hơn. Súng nổ ran nhiều ở phía ruộng. Có nhiều đoàn người di tản đi ngược đi xuôi, loạn xạ vì họ chẳng biết nơi nào yên ổn, nơi nào không yên! Biết hỏi han cũng không được tin tức gì, mà người ta cũng không có thì giờ kể cả cái gật đầu hay lắc đầu nữa.
“Thôi kệ con ơi, phó cái mạng cho trời đất.”
“Dạ. Rứa thì mình cứ theo người ta mà chạy.”
Gia đình chú tôi có nhiều con cháu. Mấy đứa con nít thật quá tội nghiệp. Chúng nó vừa đói, vừa mệt, lại còn bị kéo lê đi, mặc kệ chân đụng đá, cây cành giữa đường. Chạy qua mấy cái lăng cổ, cung An Ðịnh đã thấp thoáng hiện ra giữa một vườn rộng cây cối rậm rịt. Cung An Ðịnh hiện nay là nơi ở của Bà Từ Cung. Trong sân cũng đã lố nhố người. Chúng tôi theo vào và cũng vội vàng tìm chỗ tránh đạn. Bên trong đã khá đông, chúng tôi bị dồn vào phía sau, sát bể nước lớn. Ở đây, tiếng súng xa hơn. Có vẻ vững tâm, Thái sắp đặt đồ đạc và chỗ nghỉ ngơi. Vợ Bé lấy mấy miếng cơm vắt đưa cho má tôi và bầy con nít trước. Lúc này tôi mới để ý không thấy hai ông bà cụ già ngồi sát cạnh trong nhà thờ đâu. Lúc chạy, họ bám theo áo chúng tôi mà. Thấy tôi cứ thắc mắc lo cho hai ông bà cụ, má tôi nói:
“Ai có số phần đó con ơi. Phần mình còn chưa biết tới đây ra răng nữa là... Ăn đi một miếng. Thái, con cũng ăn luôn. Mấy đứa nữa, ăn luôn. Chớ lỡ ra lại chạy....”
“Con thấy ở đây yên. Lại gần sông, bên kia nghe nói Mỹ lính mình đã tới...”
“Thôi, ăn đi. Hơi đâu mà đoán.”
Má tôi nói vậy mà đúng. Chỉ mươi phút sau thôi, tiếng súng tiến lại gần và bao vây quanh khu cung An Ðịnh. Thái đẩy mọi người nằm xuống. Chúng tôi nằm sát vào nhau, như thân này có thể chắn đạn cho thân kia. Không ai dám ngóc đầu lên, vì một người mới nhỏm dậy kéo đứa con, ông ta bị ngay một viên đạn xẹt vào, bứt luôn một lỗ tai. Cũng may nó tránh xuyên qua cái đầu. Chết hụt.
Chúng tôi lại rơi ngay vào trung tâm của trận đánh rồi. Lần này, cái chết như đã đến nhặt từng người. Súng lớn, súng nhỏ, từ bốn phía lấy cung An Ðịnh làm điểm nhắm. Ầm. Ầm. Hai tiếng nổ làm chúng tôi bay dội tứ tung. Cái bể chứa nước vỡ. Nước tràn ướt cả phòng. Phía trước đã trống rỗng.
“Chạy”.
Nhiều tiếng hô. Nhưng nhiều người không chạy được, nằm đó. Họ đã chết. Chúng tôi theo Thái từ phòng dưới chạy lên phòng trên. Nhưng cánh cửa ngăn phòng đã đóng lại. Day. Ðấm. Ðạp. Cánh cửa cũng tung ra. Tiếng đạn bên ngoài càng dồn dập hơn, làm cho con người ta thu nhỏ lại và chừng đó người thêm vào cũng đủ chỗ để trốn nấp.
Không còn đâu an toàn nữa. Lại ầm, ầm. Căn nhà rung lên, giựt loạn. Ầm. Ầm. Một nửa mái nhà đổ xuống. Rào rào. Ðá gạch. Tiếng kêu. Tiếng khóc. Thái cố đẩy chúng tôi vào tuốt phía dưới một bộ trường kỷ. Cát bụi làm chúng tôi không mở mắt ra được. Nhưng tôi biết má tôi vẫn nắm chặt tay tôi. Giọng má tôi bên tai: “Con ơi. Con. Con còn đó không con.”
Bầu trời âm u bên ngoài sáng rực. Từng lằn chớp lóe lên. Mỗi lằn chớp chiếu cho tôi một hình ảnh. Mấy đứa con tôi. Tôi chắc không trở về để thấy chúng nó nữa. Chồng con tôi đã mua vé sẵn, ngày mùng hai Tết sẽ về Huế. Ngày mùng Hai qua rồi, bây giờ là mùng mấy? Tôi còn lòng dạ nào mà tính toán tháng với ngày. Ở Sài gòn có như ở đây không? Chồng tôi. Các con tôi. Trời đất ơi! Tôi không gặp được nữa!
Nhưng lúc này là phút tận cùng rồi. Phút giữa sống và chết là một lằn chỉ nhỏ. Sự sợ hãi cũng đông cứng rồi. Tôi bình tĩnh lạ lùng. Tôi bịt tai mà vẫn nghe tiếng đạn rít. Lúc dồn dập phía này. Lúc thưa thớt phía kia. Lúc sao dồn hết vào mặt tiền. Lúc chạy vòng phía sau. Nhưng tòa nhà đã như cái răng sắp rụng, đong đưa, lung lay và chờ giờ bứt ra...
“Không xong rồi. Cõng ngài. Cõng ngài mau lên...”
“Chạy... theo”.
Thu la lên. Nhưng Thái dìm đầu Thu xuống.
Muốn bay luôn cái đầu há.”
“Phò ngài chạy mau. Phía này. Không, phía này...”
“Trời ơi. Ðạp lên đầu tui.”
“Cha mạ ơi, trúng chỗ bị thương của tui. Ui chao, ui chao...”
Tôi hé mắt. Bóng người chạy thấp thoáng trong bụi mù. Một bà già mặc áo gấm đeo trên lưng một người mà tôi không nhận ra đàn ông hay đàn bà. Nhưng cái người cõng ngài mạnh lắm, xô, đẩy, đạp, gạt... và biến mất rất nhanh. Cùng lúc đó, Thái cũng băng người nhảy vọt ra phía cửa sổ. Em Thái cũng bỏ chúng tôi?
“Cầm cái cơi trầu của ngài...”
“Cái mền... cái mền...”
Vài người lật đật chạy theo. Rồi hết. Một giọng càu nhàu:
“Bà Từ Cung đó. Sướng quá hí. Giờ ni mà còn ngài với nghiếc.”
Không ai hưởng ứng vì tiếng súng lại vang rền. Không phải một phía mà trở lại bốn phía. Sẽ không còn một dịp may nào nữa! Các con ơi! Thôi mẹ từ giã, mẹ vĩnh biệt các con!
Tôi không thắc mắc gì về việc em Thái nhảy ra ngoài cửa sổ nữa. Tôi cũng đã hết hy vọng chạy thoát như vừa rồi chạy ra khỏi nhà thờ. Sẽ chết ở đây. Trong lúc gần như mê đi, tôi bỗng có cảm tưởng trên má của mình ấm áp. Nước ấm? Làm gì có. Máu đó thôi. Một đám lông xù xì áp vào người tôi, chắn phía trước ngực tôi. Một cái lưỡi chó liếm vào mặt tôi và máu, ở người tôi hay người nó, mà có mùi ngai ngái, tanh ấm, dễ chịu. Máu từ ngoài áo thấm vô hay từ bên trong chảy ra. Con chó cứ dụi vào tôi, đẩy sát tôi vào người má tôi. Má tôi ra sao rồi? Má có ngất đi không?

Chương 3: Những mảnh vụn góp nhặt:


Sau một đêm hò hét, phẫn nộ, rực lửa, bóng tối cũng tan dần. Trời vừa hé sáng thì những tiếng súng cũng im bặt.
Mặt trời như đã nổ tan tành từ bao giờ. Ánh sáng của ngày hắt hiu, buồn thảm. Buổi sáng nay thức dậy không nghe tiếng gà gáy, không có tiếng chim kêu, không có tiếng chuông chùa và tiếng chuông nhà thờ, cả tiếng gà vịt cũng không nữa.
Bầu trời như muốn ứa nước. Những khu vườn bỗng tiêu điều u ám lạ, cỏ đẫm sương mai bị dẫm nát tan tành, vung vãi những giẻ rách, mảnh đạn và vết máu. Vết máu kéo lê mặt đường, nối dài từ khu vườn này sang khu vườn khác. Một vài vũng máu còn đọng trước sân, bên bể cạn, cạnh gốc mai vàng ngập ngừng e ngại vì màu sắc quá tươi tắn.
Cùng với ánh sáng nhạt nhẽo vừa ló dạng, trên các nẻo đường, bỗng xuất hiện vô số người, đàn ông có đàn bà có. Đàn ông mặc quần áo ka ki, quần dài quần ngắn có, đàn bà mặc bà ba đen, tóc bím nhưng không thả lỏng mà cột lên cao, gọn ghẽ. Họ cầm súng, mặt mày nặng chình chịch nhìn nhau. Những tốp khác gác ở các đầu đường, trước nhiều nhà, hoặc nằm ngồi la liệt ở các khu vườn. Có rất nhiều xác chết và người bị thương ở đầu dốc, hai ba xác nằm sõng soài, ở giữa đường vài xác nằm sấp. Bên cạnh một tốp gác ở đầu cầu có vài xác cụt đầu và những tay, những khúc chân vương vãi. Bên vệ đường, một số người bị thương đang nằm rên la, một số đàn ông đàn bà đang khiêng từng người vào một khu vườn gần đó. Khu vườn bao bọc một ngôi nhà lớn, nhưng như không có dấu vết gì của người sống trong đó nữa.
Một thiếu nữ có đôi mắt sắc, đeo súng A.K. đi ra giữa đường, cô ta đưa tay lên miệng nói lớn:
“Các đồng chí, hãy tải thương bớt vào vườn này, còn bao nhiêu xác chết dồn lại một nơi.”
Cô ta lập đi lập lại hai ba lần. Tiếng cô là tiếng động đầu tiên trong buổi sáng. Giọng nói lớn của cô như rung vỡ nhiều cánh cửa và tràn vào bên trong những căn nhà đang đóng kín. Tiếng của cô gái cũng làm những tiếng rên la cất to hơn.
Lớp người bị thương được khiêng đi rất lâu. Một toán người khác từ dưới dốc đi lên, một toán khác từ trên dốc núi đi xuống, người thiếu nữ lúc nãy hỏi, giọng vẫn rổn rảng:
“Sao, báo cáo tình hình các nơi, các đồng chí!”
“Hoàn toàn xong hết. Địch câm họng từ lúc bốn giờ sáng.”
“Tôi sẽ phụ trách về những người bị thương. Số đồng chí hy sinh giao cho đồng chí X10.”
“Trên đó khoảng gần 100 đồng chí bị thương.”
“Đem lên phía chùa trên dốc.”
“Phía dưới cầu có khoảng trên năm chục người bị thương, số hy sinh nhiều hơn.”
“Đem vào vườn, sẽ tìm địa điểm di tản sau.”
“Có tin nữa.”
“G?”
“B3 truyền lệnh các đồng chí chia nhau vào các nhà, đừng để đồng bào bỏ chạy gây phiền phức. Ngay sáng hôm nay phải vãn hồi trật tự.”
Nhiều tiếng nói: Tuân lệnh. Những tốp người chia nhau đi. Phút chốc đoàn người thưa hẳn, chỉ còn vài tốp gác ở ngả đường. Một anh lính trẻ vác khẩu A.K. đưa tay quệt trán, mặc dù lúc đó trán anh ta không có giọt mồ hôi nào. Đợi cho các đồng chí bạn đi khuất, anh rẽ vào căn nhà đằng trước mặt. Con ngõ dẫn vào nhà khá xa. Khu vườn âm u bao kín ngôi nhà ngói cổ kính. Anh lính trẻ ngập ngừng rồi đưa tay gõ cửa. Nhưng gõ một hồi không thấy gì, anh bỏ đi ra. Quái, rõ ràng nhà này có người ở mà. Anh lẩm bẩm. Anh đi qua khoảng sân rộng, đứng lại bên chiếc bể cạn cạnh gốc mai vàng. Nhà nào cũng có cái bể cạn, hòn non bộ và cây mai vàng y hệt nhau. Anh nhìn kỹ trên mặt đất. Có nhiều vết máu nối nhau chạy dài ra một góc vườn nơi phía bụi tre. Anh giơ một cánh tay lên rung nhẹ một cành mai. Anh nhìn vào ngôi nhà một lúc, rồi anh thở nhẹ bỏ đi ra, lại dựa lưng vào cột trụ đầu cổng hờm súng đứng gác.
Một lát sau, trong nhà có tiếng chân nhẹ đi ra cửa. Bên trong căn nhà còn tối mờ. Bóng một người đàn ông thận trọng dò từng bước một. Anh ta tiến đến nơi cái sập gỗ. Một xác người đang nằm đắp chiếu ở đó. Anh giở chiếu lên gọi nhỏ:
“Ông nội, ông nội.”
Một người đàn bà nữa đi ra đứng sau lưng người đàn ông. Người đàn ông đưa tay vuốt mắt ông già đang mở trừng trừng, rồi nói với người đàn bà:
“Ông đi rồi.”
Người đàn bà bước lùi một bước rồi òa khóc. Nhưng rồi chợt nhớ ra, bà đưa tay tự bịt kín miệng mình lại, hai mắt bà ta cũng mở trừng trừng nhìn người đàn ông, vẻ hốt hoảng mê sảng. Người đàn ông đưa tay lên quệt nước mắt rồi cũng bịt chặt miệng mình lại. Cả hai đi vào căn phòng nhỏ phía trong. Có tiếng thì thầm trong bóng tối nhạt mờ, nhiều đầu người nằm ngồi lổm chổm:
“Răng con, ngoài yên chưa?”
“Suỵt. Hỏi dỏ hỏ, không nghe nó vừa gõ cửa đó răng!”
“Con, ôn con ra răng rồi?”
Người đàn ông kéo người đàn bà ngồi xuống:
“Mình ngồi xuống đi, đừng có đứng nữa.”
Người đàn ông cũng ngồi xuống cạnh vợ. Giọng anh ta nghẹn ngào:
“Mạ, ông đi rồi.”
Nhiều tiếng khóc muốn bật ra rồi gượng lại kịp. Tiếng thút thít của người lớn rồi trẻ con tấm tức. Người đàn ông lại đứng dậy:
“Thôi đừng khóc. Họ nghe họ vô chừ. Mạ, mạ đừng có khóc.”
Nhưng nói xong người đàn ông cũng nấc lên một tiếng nhỏ. Anh ta đi ra ngoài nhà, anh dòm qua khe cửa. Một tốp đàn ông đàn bà đang đi vào trong sân. Anh ta nhè nhẹ trở đi vô. Căn nhà hoàn toàn im lặng.
Tiếng gõ cửa nổi lên ban đầu còn thưa, rồi trở nên cấp bách. Có giọng đàn ông người miệt ngoài cất lên:
“Mở cửa, mở cửa, quân giải phóng đến.”
Bên trong căn phòng nhỏ, người đàn bà cầm chặt lấy tay người đàn ông. Bàn tay của người mẹ bịt chặt miệng đứa cháu, sợ nó la khóc. Tiếng đập cửa bên ngoài mạnh hơn:
“Mở cửa. Mở cửa không chúng tôi bắn.”
Có tiếng người đàn ông trẻ tuổi:
“Hồi nãy tôi gõ mãi mà không có ai. Chắc họ chạy hết rồi.”
“Vô lý, đêm mà chạy đi đâu. Chưa ai chạy khỏi nhà hết.”
Rồi một giọng khác dõng dạc:
“Tôi đếm từ một tới ba mà không mở cửa là tôi bắn. Có ai trong nhà không? Một…”
Người đàn bà xô người đàn ông ra cửa, chị lẩy bẩy thế nào mà gây một tiếng động nhỏ. Bên ngoài có tiếng cười gằn rồi tiếng hô tiếp:
“Hai.”
Người đàn ông đã ra tới cửa, anh giơ hai tay lên khỏi đầu:
“Dạ lạy các ông, lạy các ông tui mở, dạ để tui mở…”
“À, biết ngay mà. Mở cửa.”
Người đàn ông lẩy bẩy một lúc mới mở được cánh cửa. Toán người ùa vào nhà. Họ có khoảng chừng mười người, kẻ vác súng trường người xách bị rết. Người đàn ông lớn tuổi nhất, có đôi mắt thật to nhưng vẻ mặt xanh xao, nhìn một lượt khắp nhà:
“Các đồng chí canh gác cửa ngõ.”
Vài người đi vào các phía cửa sổ. Người đàn ông chủ nhà mặt tái xanh tay chân run cầm cập nói không ra tiếng:
“Lạy các ông chúng tôi là người lương thiện.”
“Hừ, tại sao gọi cửa hoài không mở hả. Mở đường cho ngụy chạy phải không?”
“Lạy các ông, con sợ quá.”
“Không có các ông nào ở đây hết. Chúng tôi là quân giải phóng.”
“Dạ.”
“Có bao nhiêu người trong nhà gọi ra hết đi. Mau.”
Rồi ông quay đi:
“Các đồng chí. Mở cửa sổ ra.”
Ánh sáng lùa vào căn phòng, soi rõ khuôn mặt của ông già nằm trên sập gụ. Chiếc chiếu đã được mở ra từ trước, tấm chăn đắp trên người ông loang đầy máu, đã sệt khô. Người đàn ông lớn tuổi bước tới một bước nhìn vào mặt người chết, rồi la ồ lên một tiếng:
“Ông chết rồi hả!”
“Dạ.”
“Bị tự bao giờ?”
“Dạ thưa ông… ông giải phóng, dạ bị tự lúc một giờ sáng, máu ra nhiều quá.”
“Các đồng chí cho đem xác ra ngoài vườn giùm đi.”
Mấy người đàn ông định xúm tới. Người đàn bà run lập cập:
“Lạy các ông, dạ lạy các ông giải phóng, dạ để chúng con xin được chôn cất.”
“Để đó.”
Mấy người đang đi đến tấm sập gụ dừng lại. Người đàn ông lừ mắt vào phòng trong:
“Gọi hết cả nhà ra đây. Đi ra hết. Ai còn ở trong chúng tôi bắn.”
Mấy đứa trẻ con ra trước rồi một người đàn bà đứng tuổi, mấy cô con gái, một chị đàn bà bế đứa con nhỏ. Mặt người nào người đó tái xanh. Người đàn ông lớn tuổi nạt:
“Đứng cả vào một góc nhà.”
Cả nhà líu ríu đứng về phía sập gụ, bên cạnh xác chết của ông già. Có tiếng động nhỏ phía trong. Người đàn ông lớn tuổi lắng tai nghe. Một nữ cán bộ dợm tới một bước, chĩa súng vào căn phòng nhỏ:
“Ai trong đó xin mời ra.”
Bên trong vẫn im như tờ. Nhưng người đàn ông lớn tuổi đã lừ mắt ra hiệu.
Hai ba người khác bước tới. Cánh cửa phía bên buồng trong bỗng bật mở sáng. Một bóng người lao ra ngoài. Một tiếng chóc khô, lạnh, vang lên. Có tiếng kêu ở bên ngoài cửa sổ và tiếng rú của mấy người đàn bà. Người đàn ông đứng tuổi lại cười gằn:
“Coi lục soát kỹ nhà này.”
“Tuân lệnh.”
Mọi người chia nhau đi lục soát, người đàn bà già và thiếu phụ bồng con ôm mặt khóc nức nở. Mấy cô gái mặt tái xanh, cắt không còn hột máu. Người đàn ông ôm chặt một đứa nhỏ đang đu lên người ông. Đám người lục soát một hồi trở ra, một người nói:
“Không có gì nữa cả.”
Người đàn ông đứng tuổi hất hàm:
“Ra coi tên đó chết chưa!”
“Dạ, đã xem, chết rồi.”
Nhiều tiếng khóc cùng bật lên một lúc. Mấy cô nữ cán bộ xúm lại, vẻ hung hăng lúc đầu biến mất. Một cô làm thân với thiếu phụ:
“Chị đừng buồn, đừng sợ. Chúng tôi chỉ xử những người có tội, còn những người dân thì chúng tôi có bổn phận phải bảo vệ.”
Thiếu phụ chùi nước mắt:
“Nó là em tui mà. Nó có tội tình chi mô.”
“Tại anh ấy bỏ chạy. Trong hoàn cảnh chúng tôi, chúng tôi phải tự vệ.”
Người đàn ông đứng tuổi nhìn một lượt những khuôn mặt đang run rẩy, tái xanh. Giọng hắn chầm chậm, đều đều:
“Mẹ và chị đừng sợ. Chúng tôi đến đây là để giải phóng cho đồng bào…”
Người thiếu phụ đang khóc bỗng nín bặt, ngơ ngác. Mấy đứa con gái nép sát vào nhau. Có tiếng chân người chạy từ ngoài cổng vào. Hai giải phóng quân khác đi vào. Họ có quàng khăn xanh ở cổ, người đàn ông đứng tuổi hỏi:
“Có chuyện gì vậy?”
Một người nói nho nhỏ vào tai người đàn ông lớn tuổi. Hắn gật gật đầu, quay lại nói với các nữ cán bộ và mấy người giải phóng:
“Các đồng chí ở lại đây. Còn tôi với đồng chí Thu đi lên xóm Chùa.”
Tiếng chân đi ra cổng. Một nữ cán bộ giơ tay:
“Các đồng chí, chúng ta ở lại đây, sửa soạn cơm nước rồi phụ bạn tải thương, tiếp vận.”
“Đồng chí Xuân nói phải. Lát nữa chắc có tiếp vận tới.”
Người nữ cán bộ mang tên Xuân mỉm cười, vỗ vai thiếu phụ thân mật nói:
“Bây giờ để tôi nhờ các đồng chí phụ với ông nhà lo chôn hai xác chết. Thưa chị, đây là…”
Xuân chỉ vào xác chết ông già. Người mẹ vội vã trả lời thay con dâu:
“Dạ thưa cô, đây là ông nội của tụi nó.”
Người nữ cán bộ xua tay:
“Chết, mẹ giải phóng, con xin mẹ đừng gọi con là cô. Con xin được làm con mẹ như các chị các anh ở đây.”
Cô nói xong quay lại đồng bạn:
“Bây giờ nhờ đồng chí Tiến, đồng chí Bình lo chôn giùm hai xác người, cụ và anh đang ở ngoài vườn.”
Rồi đổi khuôn mặt buồn rầu, người nữ cán bộ tên Xuân quay lại phía gia chủ:
“Thật đáng tiếc, trường hợp ngoài ý muốn, xin chia buồn với mẹ và các anh các chị.”
Người đàn ông quay mặt đi giấu hai giọt lệ đang lăn xuống. Xác chết của ông già và người thanh niên được bó trong hai chiếc chiếu rồi đem vùi nông ở góc vườn. Một lát sau, mấy cô nữ cán bộ làm thân với mấy cô gái, các người lính giải phóng thì chia nhau gác góc vườn và lo đi liên lạc, Xuân nói với người đàn bà già:
“Thưa mẹ, nhà ta còn gạo không?”
Bà già thật thà:
“Gạo còn hai bao. Tết mà cô. Còn cả bánh tét và mứt nữa cô.”
“Ấy, xin mẹ đừng gọi con bằng cô nữa. Mẹ gọi con là con như gọi các anh các chị đây.”
Cô lại cười, nói tiếp:
“Có lẽ vài ba bữa nữa bộ đội mới tiếp lương thực tới. Mẹ cho chúng con vay hai tạ gạo. Vài ba hôm lấy xong thành phố Huế, Bác Hồ vào thăm, con sẽ thưa trường hợp của mẹ. Bây giờ xin mẹ ký vào cuốn sổ vàng của Bác Hồ.”
Cô quay lại gọi:
“Đồng chí Nữ đâu, đem sổ ra đây.”
Người nữ cán bộ tên Nữ là một cô gái mập mạp, nhưng nước da vẫn tái xanh, cô ta nhanh nhẩu rút trong áo ra một cuốn tập, chìa tới bên bà già:
“Thưa mẹ đây, xin mẹ ký.”
Người đàn bà già run run:
“Dạ tui có biết chữ chi mô mà ký.”
Cô gái lại cười, hỏi mấy cô gái Huế đang đứng dồn với nhau một góc.
“Thôi các chị biên tên rồi ký giùm. À mà để tôi biên tên cho cũng được…”
“Dạ thưa mẹ, mẹ tên chi. Dạ xong rồi. Xin chị ký.”
Cô gái nhỏ run run viết một chữ ký nguệch ngoạc lên trang giấy. Nữ đưa cuốn sổ cho Xuân. Người đàn bà lặng lẽ chùi nước mắt. Mấy cô gái vẫn đứng dồn một góc, nắm chặt tay nhau, trong lúc cô nữ cán bộ tên Xuân cười:
“Trưa nay chúng ta ăn mừng chiến thắng.”
Những mảnh mặt trời vỡ vụn đang dần dần tụ lại, vẫn dật dờ lẩn khuất bên trên bầu trời đầy mây mù và gió lạnh.
Những đốm máu cùng sương vương trên cỏ đã khô để lại những vết tím bầm. Trong những khu vườn nhiều dấu đất mới. Tất cả những người bị thương đều được khiêng lên một ngôi chùa và các nữ cứu thương đang trổ tài băng bó. Vẻ vui tươi buổi sáng biến mất trên khuôn mặt họ; những đồng chí giải phóng đi đi lại lại gác các đầu đường hoặc chia nhau tràn vào các nhà dân.
Nơi ngã ba, trong một quán nhỏ bỏ trống, mấy người đàn ông bị thương nhẹ đang ngồi rờ rịt vết thương. Anh lính trẻ tên Thu đang bồng súng đứng gác ở góc đường. Cạnh đám cỏ anh ngồi, một vũng máu của ai đã khô, mấy con ruồi xanh bay vật vờ, thỉnh thoảng vài con chờn vờn trước mũi anh, muốn bám vào mặt anh, anh đưa tay xua với dáng điệu hết sức lơ đãng.
Một vài nhà, cửa mở toang, người ta thấy các anh giải phóng, các cô cán bộ đi vào. Thỉnh thoảng có một vài đứa nhỏ chạy ra sân, tức thì có một người lớn chạy ra bế bổng đứa bé lên hốt hoảng chạy vào nhà, mất hút. Không khí hoàn toàn yên tĩnh. Vừa mới đêm qua, tiếng súng xé màn trời, rung đổ nhà cửa, bây giờ tất cả sự ồn ào đó đã lẩn mất cùng bóng đêm, để lại một mặt trời vỡ với những kinh hoàng còn bám chặt trên mặt đất đầy máu, trên những cành cây gãy đổ, trên những ngọn lá xanh rụng đầy vườn.
Tất cả mọi nhà, mọi người đều ngồi chụm vào một đám. Họ e dè nhìn những anh lính miền Bắc mà họ được phép gọi là quân giải phóng, đi lui đi tới, nét mặt đôi khi phấn khởi đôi khi nghiêm nghị bí ẩn. Họ không dám trả lời một câu hỏi nào của đám người lạ mặt.
Dân trong xóm cũng ngạc nhiên không ít khi thấy vài người láng giềng mới hôm qua còn chúc tết nhau, sáng nay đã thấy họ cầm súng trong tay, cũng quấn khăn xanh khăn đỏ nơi cổ và nhìn họ bằng ánh mắt đe dọa, kiêu ngạo. Những người này công khai đi thăm hàng xóm. Một ông thợ lò rèn mới tối qua say rượu lè nhè chửi nhau với mấy cô gánh nước ngoài giếng, nay cũng xách súng đi thăm từng nhà. Gặp ai anh cũng nở nụ cười thật tươi, huênh hoang nói:
“Đồng bào yên chí đi, bà con yên chí đi. Vài ba hôm nữa cụ Hồ vô, tha hồ mà liên hoan.”
“Bác không biết đó chớ. Tui theo quân giải phóng lâu rồi. Tui nằm vùng mà.”
Mọi người nhìn anh ta với khuôn mặt xanh lè. Ai cũng sợ, thường ngày anh chỉ là thợ rèn hiền lành, chiều chiều say rượu hay nói bậy, gây gổ với trẻ con, với các cô ở đi gánh nước. Nhưng biết đâu anh không chuốc oán mua hờn với nhiều người trong xóm. Mấy đứa con trai con của một bà bán thịt heo ở chợ cũng nô nức xách súng theo giải phóng.
Một ông già ăn mày thường ngày ngồi trước mấy quán nước, hôm nay mặt mày cũng rạng rỡ hẳn, ông ta đi khắp các nhà tuyên truyền ầm ĩ:
“Quân giải phóng tới rồi nghe, rồi đây mình sướng lắm. Tui nói thiệt chớ ai làm cái chi ở đây mà tui không biết.”
Câu nói như một lời đe dọa, người ta đưa mắt nhìn nhau, vẻ lo lắng buồn rầu không thể nào che dấu được nữa.
Đến khoảng trưa thì quân giải phóng đến thúc mọi người ra hết ở ngoài sân. Họ kêu gọi những thanh niên đi tải đạn, những thanh nữ đi tải thương. Mười lăm tuổi trở lên là phải đi hết, chỉ các bà mẹ mà họ gọi là mẹ giải phóng, các sản phụ, các bà mang thai mà họ gọi là chị giải phóng, thì ở nhà giúp đỡ các anh giải phóng cơm nước. Một số người bị thương chịu không nổi đau đớn đã trút hơi thở. Nhưng quân giải phóng không đem chôn trong vườn nữa, họ chở đi theo với đoàn bị thương lên miệt trên. Đó là những con đường dẫn lên Tây Thiên, lên dòng Thiên An, lên các lăng tẩm. Giữa trưa, những ngôi nhà buồn tẻ im lặng cũng có hơi khói, dấu hiệu của buổi cơm.
Nhiều tiếng khóc bật lên thảm thiết. Trong nhiều ngôi nhà cũng có nhiều người dân chết vì vết thương không đủ thuốc thang băng bó. Người lính trẻ tuổi đang gác ở ngã ba lắng tai nghe rồi châm một điếu thuốc hút. Mấy người trong quán hỏi vọng ra:
“Ai khóc ở đâu vậy?”
“Trong mấy nhà kia kìa.”
“Chắc có người chết!”
“Dân mà, quân mình chở đi hết rồi.”
Anh ta lại nhìn vào một ngôi nhà nằm khuất trong một vườn cây, hỏi:
“Biết đây là gì không?”
“Nhà thờ cụ Phan đó.”
“Một vị anh hùng, một người cách mạng hả?”
“Ừ.”
Người trong quán hỏi tiếp:
“Lấy xong mấy đồn chưa?”
“Chưa có tin gì hết.”
Người lính trẻ lại im lặng. Tiếng khóc trong nhiều căn nhà nổi lên, anh ta châm một điếu thuốc nữa rồi cau mày. Anh ngập ngừng rồi mạnh dạn đi vào một nhà gần nhất.
Đó là một ngôi nhà tranh nằm ngay mặt đường gần ngã ba nơi anh lính đứng gác. Anh ghé cửa nhìn vào, bên trong ngôi nhà, giữa bộ ván gỗ, một xác chết nằm ngửa, cả một gia đình bu quanh kêu khóc. Một bà già, một người đàn bà bế đứa con và hai đứa trẻ đang xúm quanh xác chết: Con ơi là con ơi, anh ơi là anh ơi. Ba ơi là ba, ba ơi. Tiếng người mẹ, người vợ, tiếng những đứa con thơ làm não ruột người nghe. Anh lính Bắc Việt tần ngần đưa tay đập nhẹ cửa.
Cánh cửa không đóng, anh chỉ mới đưa tay gõ đã tự động đẩy ra. Luôn đà anh đi thẳng vào nhà. Hai người đàn bà hốt hoảng nhìn ra, mấy đứa trẻ con nín khóc. Anh đi tới gần nhìn xác chết, không phải một mà là hai xác chết. Phía trong xác của người đàn ông còn xác một đứa trẻ khoảng lên ba, mặt mày tím bầm và còn dính đầy máu. Người đàn bà già chen tới trước mặt anh như che chở cho mấy xác chết, đôi mắt bà nhìn người lính giải phóng với vẻ van nài cầu khẩn:
“Ông ơi, chết hết rồi, không còn ai nữa mà bắt đi.”
Bà chỉ vào người đàn bà đang bế đứa nhỏ:
“Con nó một nách ba đứa con dại, ông tha cho mẹ con tui…”
Người đàn bà già nói xong bật khóc, cô con dâu và mấy đứa nhỏ lại khóc theo. Người lính nhìn quanh gian nhà, đồ đạc thật nghèo nàn, ở giữa nhà kê bộ ngựa gõ, bên chái trên là bộ bàn ghế, đằng sau bộ bàn ghế là một bàn thờ nhỏ, phía bên trái kê chiếc giường tre. Trên bàn thờ còn nguyên mấy đòn bánh tét, mấy đĩa mứt bánh. Trên chiếc bàn gỗ phủ mảnh vải ny lông hoa hòe còn chiếc bình bông cắm một cành mai vàng. Mấy cái tách, mấy cái ly úp trên một cái khay bằng nhôm. Anh dịu giọng hỏi bà già:
“Nhà này của mẹ?”
“Dạ, còn đây là con cháu tui.”
Bà chỉ cả người chết lẫn người sống. Người lính Bắc Việt mở cái khăn quàng cổ của mình đắp lên mặt người đàn ông, rồi rút khăn mùi xoa lau bớt máu dính đặc trên mặt đứa bé. Anh kéo cái chăn đắp kín mặt mày thằng nhỏ. Vừa lúc đó có tiếng động dưới bếp, tiếng đập cửa rồi một khuôn mặt đàn bà đầu rối bù ló lên:
“Bà Bổng ơi, có chút dầu mô cho tui một chút. Có chút thuốc đỏ cho tui một chút. Nó sắp chết rồi bà Bổng ơi.”
Người đàn bà lật đật đi lên nhà, thấy hai xác chết nằm sõng sượt trên ván gỗ, bà ta lùi lại:
“Ối trời ơi, mần răng ri nì. Mần răng ri nì trời.”
Bà đưa mắt nhìn khắp mặt mọi người, đến khi chạm phải anh lính giải phóng. Bà đưa tay lên miệng, khuôn mặt đã tái xanh bây giờ xám ngoét.
Bà già xô vai chị đàn bà:
“Chị Trùm đi về đi. Đừng có chạy qua chạy lại nữa.”
Người đàn bà tên Trùm run lẩy bẩy:
“Bà Bổng làm ơn làm phước cho tui xin chút thuốc rịt vết thương cho con Bê, máu ra nhiều quá, nó xỉu rồi.”
“Con Bê há? Nó bị thương?”
“Nó bị thương hồi gần sáng. Trời đất quỷ thần ôi, khổ cho gia đình tui, hồi trước tới chừ ăn ở có răng mô mà trời bắt tan tành như ri rứa trời.”
Rồi nhìn hai xác chết, bà gượng lại:
“Trời đất hỡi, còn thằng Tanh với thằng cu em răng mà ra thân thể ri nì trời!”
Nghe tiếng than của người hàng xóm, người vợ bật khóc nấc lên, bà già bế lấy đứa cháu trên tay con dâu, cũng mếu máo:
“Thôi con ơi, đi ra mà nấu chén cơm, đặt bát nhang lên cho tụi nó, răng mà khổ ri trời, nhang tàn khói lạnh…”
“Ai bắn ai giết nó đó?”
“Biết mô mà lần, chị Trùm ơi, chỉ biết là con mình, cháu mình chết.”
Chị Trùm nhìn người lính giải phóng và chợt nhớ là mình vừa nói một câu hớ có thể nguy hiểm, chị nín thinh. Nhưng người lính vẫn lơ đãng nhìn về phía bàn thờ. Những chân nhang đã tàn, hai ngọn nến cháy gần lụi được thổi tắt từ lúc nào. Một lát, thấy người đàn bà lật đật đi xuống bếp, anh nói theo:
“Có ai bị thương đem qua bên chùa, quân cứu thương băng bó cho.”
“Có, tui đã đem qua rồi, họ nói thuốc chưa đủ cho quân giải phóng.”
Chị đàn bà đã khuất sau bếp. Tiếng chân đi vòng ra phía hẻm… Người lính giải phóng nhìn xác chết một lần nữa rồi nói với bà già:
“Thôi mẹ, mẹ đừng khóc nữa, phải có người hy sinh cho chúng ta chiến thắng.”
Người đàn bà già không hiểu. Người vợ đưa tay quệt nước mắt:
“Trời ơi là trời, mạ con tui biết sống với ai ri nì trời.”
Có tiếng súng nổ, chỉ một tiếng một rồi nín hẳn. Anh lính giải phóng chạy ra ngã ba nhìn ngơ ngác. Một anh lính giải phóng đang gác trước một cửa nhà cách chừng mười thước giơ tay chỉ vào một bụi cây bên đường. Người lính trẻ nhìn theo một thanh niên đang cố bò ra mặt đường, anh ta đã trúng đạn, máu lết từng vệt dài trên mặt đất. Người lính trẻ chạy lại. Bàn tay người thanh niên đưa ra muốn được nâng đỡ nhưng anh cũng không còn đủ sức nữa, cánh tay rơi bịch xuống đất, miệng anh mấp máy một hai câu gì đó rồi anh nằm lật ngửa, bất động. Người lính giải phóng đứng sững lại. Tiếng người bạn đằng xa hỏi:
“Chết rồi hả?”
Người lính trẻ gật đầu. Anh ta đưa tay lên cổ như muốn sờ vào chiếc khăn, anh ta đụng vào cổ áo và cầm chặt lại. Phía đằng sau lưng có hai chị nữ cán bộ đi tới, thấy anh đang đứng như trời trồng, họ cười phá ra:
“Đồng chí Thu làm gì đứng đó. Chỗ anh đứng gác đằng ngã ba kia mà. Thôi ráng gác đi, có lẽ tối nay bộ đội mình rút lên phía núi.”
Một cô nhìn xác chết:
“Sao vậy? Ai bắn đó? Đồng chí hả?”
“Không.”
Người bạn đứng đằng kia la lớn:
“Nó muốn chạy trốn, thấy nó lui cui sau bụi cây, tôi nổ súng đó.”
Một cô nhìn xác chết, cười khinh bỉ:
“Thứ này béo tốt dữ, ăn bơ sữa của Mỹ đây mà.”
Người lính trẻ đưa hai bàn tay của anh ra nhìn, anh đi trở lại chỗ gác của mình. Trong một căn nhà khác lại có tiếng kêu khóc:
“Cứu tôi với, bớ làng nước ơi, con tui, con tui…”
Chắc lại có một người nữa vừa mới chết. Mấy cái đầu thò ra:
“Đằng nhà đó có chuyện gì vậy?”
“Người chết.”
“Mấy người?’
Anh đưa hai ngón tay làm dấu, rồi chợt nhớ ra, anh lật đật đưa thêm một ngón nữa. Trong quán có tiếng nói lớn:
“Vào đây ăn bánh chưng. Bánh chưng Huế đây. Đồng chí nào ra thay dùm đồng chí Thu.”
Anh lính trẻ lắc đầu nói:
“Thôi khỏi.”
Có tiếng chân chạy, phía xác chết đang nằm tênh hênh bên đường có hai ba người chạy tới, toàn đàn bà và con nít:
“Con ôi là con ôi, đi ra mần chi cho họ bắn chết con ôi.” Giọng người mẹ kêu la thảm thiết. Anh lính giải phóng đi tới hỏi:
“Con bà?”
“Dạ, con tui.”
“Tại sao không ở nhà mà đi ra đường làm gì giờ này?”
“Con em gái nó bị thương, nó đi kiếm đọt lá chuối về rịt.”
“Thế à!”
Người lính đi về chỗ. Mấy người đàn bà, mấy đứa con nít xúm lại ôm xác người thanh niên đi khuất vào một ngõ nhỏ. Người bạn đứng gác đằng kia bước lại gần phía anh lính tên Thu:
“Đồng chí cần phải đề cao cảnh giác. Cấp trên ra lệnh không được lân la nói chuyện bừa bãi, tụi nó đều là tay sai Mỹ ngụy hết.”
Cả hai người đều trở lại vị trí cũ. Phía dưới cầu, một đoàn người đi lên, họ đang tải thương. Mấy cô gái Huế còn nhỏ mặt mũi xanh lè đằng sau là mấy anh giải phóng và mấy cô nữ cán bộ. Họ đi thật nhanh, mặt lầm lỳ. Các cô gái Huế hiện rõ vẻ sợ hãi và mệt đừ, những người nằm trên băng ca máu me đầy mình. Anh lính trẻ đi ra phía đường nhìn từng khuôn mặt người bị thương đi qua. Đến người cuối cùng anh ta níu cáng lại:
“Mịch.”
Người thanh niên ở trên băng ca bằng vải trắng mở đôi mắt lờ đờ nhìn mặt người gọi. Người lính tên Thu cúi xuống:
“Mày bị rồi.”
Người bị thương nhếch môi đau đớn:
“Chắc tao không sống nổi. Thu có về Bắc được nhớ cho thầy me tao biết.”
Anh ra dấu cho bạn tháo cái giây bạc đeo ở cổ, thều thào:
“Nhớ đưa cho đẻ tôi. Thu.”
Thu vội buông tay bạn. Cô nữ cán bộ trong đội cứu thương đã lên tiếng gọi hai cô gái Huế ỳ ạch khiêng chiếc băng ca lật đật đi lên. Người bị thương cố nhướng mắt nhìn bạn và cố đưa bàn tay lên vẫy mà không còn đủ sức nữa.
Anh lính tên Thu sững sờ nhìn bạn bị khiêng đi xa dần. Tay anh còn cầm chặt sợi dây bằng bạc. Mịch. Anh gọi lớn. Nhưng chiếc băng ca đã khiêng đi xa, còn lại một tay, anh đưa tay dụi mắt mình mà như là vuốt mắt cho bạn. Phía dưới cầu lại một tốp khác đi lên, họ cũng tải thương. Anh vẫn cầm chặt sợi dây bạc trong tay, sững sờ nhìn từng chiếc băng ca khiêng qua mặt mình. Nhưng anh không nhìn từng người bị thương nữa.
Ngang qua mũi súng của anh, mấy cô gái Huế càng bước mau, như sợ vô tình một viên đạn có thể bay ra ghim vào người mình. Anh ta để cho mũi súng chúc xuống đất. Trong một cánh cửa sổ từ một ngôi nhà phía ngã ba, nằm trong một khu đất rộng và trong cây cối, anh ta bắt gặp một đôi mắt thập thò nhìn. Anh không dám nhìn lại, sợ đôi mắt đó sẽ biến đi. Đó là đôi mắt của một cô gái nhỏ khoảng mười lăm mười sáu tuổi. Phía sau lưng cô gái có một bàn tay chộp lấy vai áo:
“Đừng có nhìn mà.”
Một người đàn bà khoảng ba mươi tuổi kéo tuột cô gái vào, giọng thì thầm:
“Đừng có ngó. Tụi nó vừa bắn chết một người gần ngã ba a tề.”
Cô gái rụt đầu… le lưỡi:
“Chị, có một tên Việt cộng đẹp trai ghê đi chị. Nó gác ở ngã ba đó tề.”
Người đàn bà lôi tuột cô em nhỏ vào trong mắng:
“Nói tào lao. Đi vô.”
Cô gái nhỏ đi vào. Người đàn bà bế xốc đứa bé gái đang đứng ở cửa buồng, nói vọng vào trong:
“Mệ, từ rạng sáng tới chừ chở nhiều xác chết, nhiều người bị thương quá mệ ơi.”
Tiếng người đàn bà già run run:
“Nhỏ nhỏ cái miệng, vô trong ni mà nói.”
Cả nhà xúm vào buồng. Thiếu phụ nói nhỏ vào tai bà già:
“Chắc họ sắp rút lên trên tê hết rồi.”
“Tao cũng mong rứa.”
“Hồi hôm họ chết nhiều rứa thê mệ.”
“Chắc sáng quân đội mình đã lên rồi, chắc họ chuẩn bị rút lui rồi đó hỉ?”
“Chắc rứa.”
“Răng ôn mi chưa thấy lên?”
“Kẹt dưới đó rồi.”
Cô gái lại bỏ đi ra ngoài. Bên trong người đàn bà nói giọng thiệt nhỏ:
“Đừng cho thằng Hợi nó xuống. Chút nữa mệ lấy cơm vắt lên cho nó ăn không nó xỉu.”
“Khi hồi có mấy tên đi vô nhà, cứ ngó lên trần, tao sợ bắt chết.”
Bên ngoài, nơi cô gái nhỏ nhìn ra, anh lính Bắc Việt còn đang đứng nhìn theo mấy cô nữ cán bộ tập xe đạp, đẩy xe Honda. Các cô bím tóc, quần xắn đến quá đầu gối.
Cô gái nhỏ nhìn hai cô đẩy theo một cô ngồi trên xe tuy có hai người giữ hai bên mà chiếc ghi đông vẫn quẹo qua quẹo lại.
Mấy cô cười đùa thiệt vui nhưng anh lính trẻ không cười. Mặt anh lầm lầm lì lì nhìn xuống con dốc đang có mấy người đàn bà chạy ra đường kêu cứu:
“Cứu con tui với, bớ làng nước ơi. Cứu chồng tui cứu cha tui.”
Mấy cô nữ cán bộ lướt qua mặt anh, cười cười nói nói:
“Trong này nhiều xe quá, thắng lợi rồi mình có xe đi.”
Một cô nói lớn:
“Đồng chí Thu tích cực quá hỉ!”
Cô ta nhại giọng Huế rất khó nghe. Anh lính trẻ cau mày. Anh liếc vô trong căn nhà trước mặt. Cô gái nhỏ vội thụt đầu vào. Không hiểu bực tức hay buồn bã chuyện gì, anh ta đưa súng lên nhắm thân cây trước mặt như muốn bắn. Không có tiếng đạn nổ. Mấy cô nữ cán bộ cười xòa, thoáng cái họ đã xuống tới lưng chừng dốc.
Một con chó mình mẩy dính máu khô từ trong một bụi cây lết ra, anh lính giải phóng lượm một hòn đá ném mạnh. Còn chó còn đủ sức để chạy bằng ba chân, nhưng chỉ được một quãng, nó bò lết rồi nằm bẹp một chỗ. Anh lính đi tới gần đưa súng lên đầu con vật nhắm bắn, nhưng cũng không tiếng nổ, con chó le lưỡi, miệng đầy nước dãi, mắt ngước nhìn người đứng trước mặt, ánh mắt con vật làm người lính vội quay đi, rồi trở về chỗ cũ. Mấy cô nữ cán bộ đã vòng trở lên, ngang qua mặt anh, mấy cô vẫn ỳ ạch đẩy và người nữ cán bộ ngồi trên xe trán đã lấm tấm mồ hôi nhưng khuôn mặt lại hết sức tươi tắn.
Chưa bao giờ thành phố Huế sống trong một không khí đầy chết chóc, hoang mang như thế. Tất cả những xác chết cũng như những cán binh bị thương đều đã được đưa lên ngả núi. Nhưng trong mỗi xóm, cứ vài giờ là có một vài người bị thương không được đầy đủ thuốc men ngã ra chết. Từ sáng tới chiều, tiếng khóc bật lên từ nhà này tới nhà nọ. Tiếng khóc như một bệnh dịch truyền nhiễm rất nhanh. Bên cạnh những sự chết chóc đau buồn, còn phải nhắc tới cái bệnh dịch hân hoan của các anh giải phóng. Buổi sáng họ còn e dè với người dân, nhưng tới trưa tới chiều, một nội lệnh được truyền tai rất nhanh, họ thay đổi thái độ thành những chiến sĩ rất nhũn nhặn thương dân sống hòa hợp với dân dễ dàng. Những bao gạo từ trong các ngôi nhà cùng với bánh tét bánh chưng, mứt bánh đầy ứ trong mấy ngày tết được mang ra sân chất lên những chuyến xe vận tải để chở lên miệt trên, mà theo các anh giải phóng thì họ mượn tạm cho quân đội giải phóng. Vài hôm nữa, khi ổn định xong thành phố, gạo sẽ rẻ vô cùng, không có cắt cổ như Mỹ ngụy mà bán một bao tới mấy nghìn đồng. Họ cũng hô hào nhà ai có “cờ ba que” (cờ ba que là cờ VN màu vàng có ba sọc đỏ) thì phải đem ra đốt đi để thay bằng lá cờ giải phóng, cờ bác Hồ. Những ai còn gạo, còn bánh thì phải đem ra trình với quân giải phóng, họ làm những cuốn sổ ghi tài sản của dân để vài hôm nữa, khi cụ Hồ vào sẽ đền ơn xứng đáng. Họ cũng kêu gọi những thanh niên đừng lẩn trốn mà phải ra trình diện để nhận lãnh sự khoan hồng. Mấy nhà hòm nên hy sinh giúp đồng bào hoạn nạn lo chôn cất những người dân bị chết, nhưng tất cả những khu vực đều không được đi. Trong mỗi vườn nhà đều chôn mộ người thân. Họ cũng đề cao cảnh giác, dân chúng không được ra đường, không được tụ họp trừ khi được giấy của quân giải phóng mời đi học tập. Suốt ngày những cô cán bộ lân la vào nhà này nhà nọ hỏi thăm tình cảnh của dân, làm thân với các bà, các cô, các anh các chị. Những bà già mới nhìn họ như nhìn những vị hung thần, bây giờ họ phong lên làm mẹ giải phóng, các thiếu phụ được làm chị giải phóng. Những người lớn tuổi đều tiếp đón họ bằng ánh mắt nghi ngờ, đề phòng nhưng trẻ con thì có vẻ khoái lắm. Chỉ mới từ sáng tới chiều, chúng đã tụ xung quanh các cô nữ cán bộ, các anh bộ đội. Chúng vui thích theo dõi các cuộc tập xe đạp của các cô nữ cán bộ hoặc chúng bu quanh các anh giải phóng. Nhà nào cũng có quân giải phóng tới thăm hỏi, họ nấu cơm hay ăn uống ngay trong nhà. Các cô gái khỏe mạnh được mượn đi nấu cơm cho bộ đội. Những thanh niên, những cậu trai mười bốn mười lăm được mượn đi tải súng đạn, hoặc được phát súng, được chia toán để giúp các anh bộ đội sắp tổ chức những buổi học tập. Mới ngày đầu, nhiều thanh niên đàn ông trốn chui nhủi trong xó buồng, trên trần nhà. Nhưng tới ngày thứ hai, nhiều người nghe các anh giải phóng kêu gọi đã ra trình diện: Ai ở nhà đó, chúng tôi không bao giờ dám động tới một người dân, chúng tôi là bạn dân mà. Đó là câu nói thuộc lòng của mấy anh giải phóng. Mặc dù các khu vực đều cấm liên lạc với nhau, mấy nhà chung quanh chỉ được hỏi han dăm ba điều mà có nhiều tin đồn lắm. Chẳng hạn như buổi trưa ngày thứ hai, nhiều người được tin là chiếc xe sang trọng nhất của cố vấn Mỹ ở Huế bị trưng dụng, một cấp chỉ huy của Việt cộng đã lái đi khắp thành phố. Một tin khác lại nói rằng nhiều xe nhà binh do các anh giải phóng lái chở đầy nhóc bánh chưng bánh tét và gạo chạy qua các ngả đường. Các anh lính giải phóng vui vẻ hơn, họ hỏi han dân, và khi có người đàn bà nào nhắc tới những tin đồn thì họ cười tin tưởng:
“Quân giải phóng đã chiếm được Huế, bây giờ cố giữ để vãn hồi trật tự, chờ cho các tỉnh đánh xong là hòa bình.”
Nhiều người ngơ ngác vì sự phát giác trên. Họ nghe ra dô nhưng nhà nào có ra dô đều bị các anh giải phóng trưng dụng hết. Họ tịch thu và nói rằng, trong lúc này, đồng bào chỉ nên nghe lời của quân giải phóng, có thể Mỹ ngụy tung những tin sai lầm làm dân chúng hoang mang. Nhiều người dấu được ra dô nhưng không dám mở ra nghe nữa. Những nhà có người thân chết đã tìm ra được vải để chít khăn tang, một vài nhà có mùi hương khói bay ra trước con mắt nhìn hết sức dửng dưng của các cán bộ giải phóng. Họ ăn uống thả cửa. Ngày tết gia đình nào cũng dự trữ đủ thức ăn. Nhưng qua ngày thứ hai thứ ba hết thịt, một vài nhà lén làm thịt heo thịt gà, quân giải phóng len lỏi tìm kiếm được mua lại của dân bằng một giá rẻ mạt. Rồi họ tổ chức tập họp vào ngày thứ ba. Buổi sáng cho thanh nữ, buổi chiều cho thanh niên. Đồng thời họ rút quân tập trung vào một vài nơi, tạm rời nhà dân chúng, nhưng lúc nào các cán bộ cũng len lỏi từng nhà lấy cớ là đi thăm hỏi.
Buổi học đầu tiên được tổ chức trong một ngôi chùa rộng, hoặc các trường học. Người ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy xóm này xuất hiện một người đại diện cho dân, rồi xóm khác một người đại diện. Những người này mới hôm qua là anh đạp xích lô hay ông già say rượu sống lây lất đầu xóm. Dân chúng cũng không khỏi ngạc nhiên khi thấy tiếng cười vang ở một vài người mới mấy hôm trước có vẻ lù đù nhất, bây giờ trở thành những nhân vật hết sức kích động, họ đi lối xóm hô hào, tuyên truyền cho quân giải phóng.
Ngay chiều thứ hai, mồng ba tết, có một vài vùng đã được chứng kiến cảnh xử tội. Một vài nhân vật trong xóm bị bắt kết tội là theo quân Mỹ ngụy. Họ bị đưa vào một trường học, các thanh niên nam nữ được nhóm lại. Những bộ mặt quen thuộc nằm vùng là người đủ thẩm quyền kể ra nhiều tội trạng của bị cáo nhất. Những bản án được kết thúc vội vàng. Nhiều kẻ bị dẫn đi, rồi ngay buổi chiều hôm đó nhiều tin đồn có người đã bị xử tử. Mọi người chưa tỉnh hồn bởi một đêm mồng một súng nổ ghê hồn, một buổi sáng mở mắt dậy thấy đầy máu me xác chết, thì đã bắt đầu lo sợ vì những cuộc tìm bắt xử án của quân giải phóng. Mặc dù ngoài mặt họ tỏ ra rất tử tế với dân chúng, nhưng đồng thời những vụ bắt bớ, xử tội đã bắt đầu; trường học, nơi của trẻ thơ, chùa chiền nhà thờ, nơi của đạo giáo, bỗng trở thành nơi hội họp, nơi tòa án nhân dân thành lập.
Thỉnh thoảng có vài tiếng súng lẻ tẻ hoặc một tràng. Mọi người như những con chim bị thương vội vàng nằm xuống đất, kẻ chui tọt dưới gầm bàn, gầm phản. Trẻ con cũng đã quen với không khí căng thẳng sợ hãi, đã nhìn thấy máu me chết chóc, hễ cứ nghe thấy tiếng súng là không cần đợi ai nhắc nhủ, cứ chạy tìm ôm chặt người lớn, hoặc sát mặt xuống nền đất. Nhưng tiếng súng chỉ lẻ tẻ rồi im lặng kéo dài, không có gì thêm ngoài tiếng cười nói của các anh giải phóng ở ngoài đường ngoài tiệm.
Đêm đến, trong bầu không khí im lặng đến ngộp thở, người ta nghe tiếng cú rúc. Tiếng cú rúc đầy khắp thành phố. Người ta hồ nghi, giữa bom đạn, giữa không khí sặc mùi tử khí hôi hám, lũ cú dám mò về làm náo loạn cả thành phố đang tê liệt. Tiếng cú hay tiếng người làm mật hiệu rú trong đêm? Người ta nín thở và chờ đợi, không biết chờ đợi cái gì sẽ đến, nhưng linh tính sẽ còn nhiều điều xui xẻo, tang thương. Những người chồng bỗng nhìn vợ trìu mến hơn, những bà mẹ ôm con thơ như sợ chúng sắp biến mất. Cỏ cây, nhà cửa, người, súc vật bỗng như cảm thấy một sự gần gụi khó tả.
Người ta không thể biết thêm gì ngoài những tin tức do các nữ cán bộ, những anh giải phóng tuyên truyền. Trong những buổi họp, nhiều cụ già lên tường trình về những tin tức. Những cô gái đi họp về kể lại rằng một ông già bán cháo lòng được bầu lên làm chủ tịch buổi học tập, mở đầu buổi họp, ông thường lên nói về tình hình chiến cuộc trong nước. Đã dốt chữ lại không quen nói, ông thường gọi trật tên các đài phát thanh và dùng sai danh từ nhưng chả ai dám sửa đổi hoặc cười. Ông bàn về tin tức chiến sự và luôn luôn mở đầu bằng câu: Theo đài a, bê, xê thì quân giải phóng đã chiếm được Sài Gòn và các thành phố, các tỉnh khác. Quân giải phóng hoàn toàn làm chủ tình thế. Buổi họp nào ông cũng nhai đi nhai lại câu đó. Các cậu sinh viên bấm nhau. Các thiếu nữ nhìn nhau ngẩn ngơ. Bình thường chả mấy khi được nghe một câu chọc cười đã như thế, nhưng lúc này chả ai còn dám cười được nữa. Những buổi họp gần như bị bắt buộc nhưng họ vẫn rỉ tai nhau, làm thế nào để những thanh niên, đàn ông tránh mặt bớt, đừng để cho các anh cán bộ nhìn thấy.
Đến chiều ngày thứ hai thì không khí hân hoan của các đồng chí giải phóng bớt sôi nổi. Sau khi một ông thợ may bị tình nghi là liên lạc viên của Mỹ ngụy bị giết, xác vất ở một ngã ba, sau khi hai thanh niên trong một cái hầm nhỏ bị bắn vì mang tội trốn tránh quân giải phóng, các nữ cán bộ đã rút hẳn vào những địa điểm được chỉ định sẵn, không lui tới thăm viếng thường trực các nhà dân nữa. Cho đến hôm đó tiếng súng lẻ tẻ bắt đầu nổ ở các miệt xa, về hữu ngạn.
Các anh giải phóng nói với nhau là xe tăng của Mỹ có lên thám thính miệt quốc lộ, có thể xảy ra ác chiến. Nhưng nguồn tin đó không chắc chắn gì, ở một vài vùng đã có các anh giải phóng đi rao:
“Các thanh niên, đàn ông lo chuẩn bị mười lăm ngày gạo để đi dự một lớp học về đường lối của quân giải phóng.”
Họ đào hầm, hố cá nhân, tải vũ khí. Không khí căng thẳng hẳn lên. Ngoài đường, trong vườn, ở các đầu hẻm vang tiếng xẻng cuốc của các anh giải phóng đào hầm.
Thanh niên, đàn ông bắt đầu tìm chỗ trốn. Từ các cánh cửa sổ hé mở, những khuôn mặt già trẻ ló ra nhìn những anh giải phóng đào hầm, mày mặt lầm lì, không ai dám hỏi thăm vui vẻ như mấy giờ qua nữa.
Đến đêm thứ ba thì cả thành phố bỗng bật dậy vì hỏa châu, vì đại bác. Các anh bộ đội, các cô nữ cán bộ không còn thấy ở đâu nữa, họ như bóng ma lẩn vào đêm tối. Người ta chỉ nghe thấy tiếng kêu khóc quen thuộc của đêm mồng một tái hiện. Chưa ai kịp đào hầm để tránh bom, đêm hôm đó các miệt Từ Đàm, Thành Nội, Gia Hội, Kim Long là những miệt ăn chịu đại bác nặng nề nhất.
Buổi sáng hôm sau, người ta vội vã đào hầm. Hầm đào ngay trong sân, trong vườn, hoặc đào ngay trong nhà. Các anh giải phóng chỉ còn gác lẻ tẻ ở các góc đường. Dân chúng tràn ra đường, hỏi thăm nhà này nhà nọ. Có vài gia đình lục đục đi tản cư, nhưng các anh giải phóng đứng gác các ngả đường ra hiệu không cho ai được đi hết. Người ta đào hầm vội vàng, tất cả các cửa sổ, cổng sắt đều được dỡ xuống để làm hầm. Có nhà không đủ vật liệu, họ ra trại mộc, hoặc chặt tre.
Vài trại mộc chỉ thoáng cái là không còn một tấm ván. Hết ván, người ta bê cả hòm, nắp hòm về để chống đỡ nắp hầm bằng đất. Có nhà đào được hầm rồi cả nhà xuống núp thấy chật chội quá lại phá ra làm lại. Đến trưa thì đại bác lại câu lên, đang ăn cơm có kẻ bỏ cả cơm nước chui xuống hầm. Các anh giải phóng chui xuống hố cá nhân. Họ không ở trong nhà dân nữa, nhưng khi có tiếng súng, họ ở đâu không biết, tràn vào các vườn, các đường, đen kín các hố cá nhân.
Khi tiếng súng tạm dừng, cảnh đào hầm lại tái diễn. Vài đám cãi nhau chửi nhau vì tranh nhau ván ở trại mộc hoặc đất cát. Cuộc pháo kích bất thình lình làm một số dân chúng và một số quân giải phóng chết hay bị thương. Họ lại vào từng nhà bắt thanh niên thanh nữ đi tải lên miệt núi. Người ta nhốn nháo đồn đại với nhau là họ đặt bộ chỉ huy trên đó. Về phía bên tả ngạn, bộ chỉ huy đặt ở phường Gia Hội. Ở vùng này hoạt động hăng hơn, mặc dù đại bác câu lên đều, họ vẫn tổ chức những buổi họp, học tập. Trong thành nội, quân giải phóng hoàn toàn chiếm hết. Có những cán bộ nằm vùng, những thanh niên mất tích từ lâu, bỗng thấy xuất hiện. Họ đeo băng, họ cầm đầu, họ đi lùng từng nhà hỏi tội. Vài cuộc rượt bắt, vài người bị bắn gục ngã giữa đường, xác người để đó không ai dám đem đi chôn, có xác đã bắt đầu có mùi, máu khô đọng, sặc mùi tanh và ruồi nhặng bu đầy, trông hết sức kinh khủng.
Bắt đầu những ngày Huế mở cửa địa ngục.
Chương 4:Qua một chuyến đò

Tôi góp nhặt được nhiều mảnh chuyện vụn vặt, mỗi người kể mỗi khác nhau về mấy ngày đầu tiên quân giải phóng đến Huế. Góp một ít khi ở nhà thờ, một ít khi vừa mới tới cung An Ðịnh. Tưởng đến cung An Ðịnh thì đoạn đường gian nan đã bớt một nửa, vì khi vừa đặt chân tới đó, tôi đã nghe nhiều người kháo nhau:
"Có máy bay của quân đội mình rồi. Họ kêu gọi dân chúng cố di chuyển về hữu ngạn."
"Hữu ngạn là đây nì."
"Nghe nói bên mình cho máy bay lên thám thính bị chúng bắn lên như mưa, máy bay phải bay cao tít."
"Mà thiệt chị có nghe trên máy bay người ta kêu rứa không?"
"Nghe chớ. Bà con không thấy đó răng, người ta chạy rần rần về phía hữu ngạn hết nì. Các vùng khác kẹt lắm. Phía trên Phủ Cam, Bến Ngự, Từ Ðàm, không ai về được hết."
"Qua cầu Tràng Tiền được không?"
"Mô được, họ đóng đầy ở nhà dây thép mà."
Mỗi người mỗi chuyện, tôi lơ mơ biết được tình hình chung của thành phố. Tôi nói với má tôi, chú tôi là mình ở phía hữu ngạn chắc yên rồi. Nhưng khi tìm được chỗ ngồi, chưa kịp dỡ vắt cơm mang từ nhà qua, thì súng lại nổ, chúng tôi lọt vào giữa trận chiến. Trong lúc tôi nằm xuống chân bàn, đầy hơi người hơi chó và chờ chết. Tôi nghĩ là chắc chắn chết, căn nhà lầu sẽ bị sập, sẽ chôn vùi chúng tôi trong đám gạch vụn, thì bỗng tiếng súng im rơ một vài phút. Sống rồi. Một tiếng nào kêu lớn trong đầu tôi, dội ngược ra và mở mắt nhìn từng người chung quanh. Họ ngồi rột dậy ngơ ngác, bụi cát còn bay mù mịt, các cửa kính vỡ chưa hết rung. Nhìn lên chiếc sập "ngài ngự" thấy còn lại cơi trầu bằng đồng chạm rồng phượng và cái chăn nhiều màu. Ngài đã được cõng đi rồi. Không biết có sống thoát được không! Chưa kịp nói với ai một lời nào thì một tiếng B40 lao vút trên mái ngói. Ầm, một mảng mái nhà sập, bụi bay mù, mọi người rụt đầu, thu mình nhỏ lại. Cánh cửa sổ chỉ còn dính vài mảnh kính, sắt nhọn bỗng như bị va mạnh, rồi một bóng người nhảy vụt vào. Vài tiếng la bật lên, vài tiếng ú ớ không ra lời. Họ tràn vào rồi. Vài người úp mặt vào hai bàn tay. Tôi mở nhìn sững, không phải lính quốc gia hay quân giải phóng mà là Thái. Mình nó đầy máu. Nó nhớn nhác nhìn tìm rồi lôi má tôi, lay chú tôi và cả nhà dậy:
"Chạy, chạy bác, chạy chị."
Tôi kéo nó nằm xuống, hét:
"Em, làm người ta hết hồn. Chạy đi mô, chết hết bây chừ đó."
Thái dựng thẳng tôi ngồi dậy. Lúc này tôi mới thấy bên hông mình ướt sũng. Máu, máu còn tươi rói chảy dọc xuống dưới chân. Tôi bị thương rồi. Bị thương sao chẳng thấy đau đớn gì hết. Tôi quay vụt lại:
"Má."
Má tôi mở mắt nhìn tôi lờ đờ. Tôi bật khóc chồm tới kéo má tôi:
"Má, má bị rồi."
Má tôi lắc đầu. Thái bỗng lôi tuột tôi chúi vào người nó:
"Dang ra, dang ra."
Tôi nép hẳn vào vai cậu em. Lúc này tôi mới định thần nhìn kỹ con chó to lớn mới đây chui rúc bên hông tôi đã bị thương nặng. Có lẽ nó chết rồi cũng nên. Tôi không thấy nó nhúc nhích cục cựa gì nữa, nhưng nơi vết thương máu vẫn còn rỉ rả chảy. Thái nói nhỏ vào tai tôi:
"Chị nói bác chạy gấp đi, họ đang siết vòng vây ở ngoài. Không lừa lúc này chạy là chết."
Không lừa lúc này chạy là chết. Tiếng chết như một sợi dây bắn ngược tôi tới cửa sổ, rồi nhanh như cắt, tôi lao đầu ra ngoài, mặc cửa sổ cao thấp thế nào chưa biết. Tôi rơi tọt ra ngoài cùng lúc cánh cửa chính mở, Thái và Bé thấy tôi chạy cũng hốt hoảng chạy theo. Chúng không kịp nhảy qua cửa sổ mà húc vào cánh cửa lớn. Vài miếng kính còn dính lại tiếp tục rơi loảng xoảng. Chú tôi, má tôi, vợ Bé, Thu và mấy đứa nhỏ cũng hốt hoảng chạy ra theo. Tôi nhìn quanh. Tuyệt nhiên không có một bóng người nào. Nhưng rõ ràng họ đang gờm nhau, đang bắn nhau. Lúc ở trong cung An Ðịnh, tôi nghe như tiếng súng bắn đi từ phía cửa, hay chính từ bên trong bắn ra nữa. Vậy mà tôi không nhìn thấy ai hết. Thấy tôi ngơ ngác, Thái lại kéo tay tôi chạy. Hình như nhiều người khác cũng vừa theo chúng tôi chạy ra nữa.
Bờ sông chắn trước mặt. Chúng tôi đã bỏ xa cung An Ðịnh một khoảng dài.
Tiếng súng đằng sau lại nổi lên, dữ dội, ác liệt hơn. Nhưng tiếng súng kéo dần tới phía trước đồng, bên phía nhà thờ. Chúng tôi xa dần nơi nguy hiểm. Một đoàn người từ phía cầu chạy xuống. Thái hỏi:
"Qua cầu được không?"
Mấy cái đầu cùng lúc lắc một lượt. Tôi kêu lớn:
"Ðừng chạy tới phía đó, họ đang đánh nhau."
Nhưng đoàn người như không nghe, họ vẫn cắm đầu chạy. Mấy đứa trẻ con vấp ngã, khóc ré lên rồi lại lồm cồm ngồi dậy chạy tiếp. Vợ Bé lúc này mới kêu lên:
"Bỏ hết đồ lại ở trên nớ rồi."
Bé la lên:
"Bỏ hết, chết chưa lo, lo ba cái đồ..."
Vợ Bé mếu máo:
"Còn mấy vắt cơm không mang đi, chút nữa cũng chết đói."
Lúc này tôi chạy lúp xúp sau Thái. Tôi bỗng hoảng kinh khi thấy máu ở cổ nó đang chảy giòng xuống vai. Tôi kéo tay nó:
"Thái, em bị thương rồi."
Nó vừa chạy vừa thở:
"Cả cái mái ngói đổ xuống đầu em. Như ri là nhẹ, không răng mô chị."
Một bến sông nữa hiện ra, Thái reo lên:
"Có đò, có đò, mình qua sông được rồi."
Khúc sông ở đây sao yên lành quá, cây sung bên bến sông vẫn xanh um, mặt nước vẫn lặng lờ và mấy hòn đá đặt trên bến vẫn sạch sẽ, nhẵn bóng. Tôi bàng hoàng như nhìn thấy một cảnh nào ở trong cơn mộng hoặc mắt mình đã hoa lên rồi. Chúng tôi vừa dừng lại bến thì đằng sau cũng có vài người khác chạy đến. Thái hỏi:
"Chạy ở mô tới?"
"Ở bên nhà thờ."
"Ở cung An Ðịnh."
"Thấy chi không?"
"Chắc sập hết rồi, bắn dữ lắm."
Thu chạy xuống bến. Mấy con đò như bỏ hoang không người ở. Chúng tôi gọi mãi mới có một chị đàn bà ló ra.
"Cái chi rứa?"
"Cho chúng tui qua sông với bà ơi."
Người đàn bà lắc đầu:
"Không được mô. Ðang đánh nhau dưới nớ, ra giữa sông lỡ đạn trúng mần răng."
"Chị ở đây cũng trúng rứa."
"Thà tui chết một mình. Tui còn một mình mà."
Giọng chị lạnh như đồng. Thái năn nỉ:
Chị làm phước cho tụi tui qua bên nớ. Bên nớ có nhà quen không tụi tui chết hết ở đây."
"Ðông rứa răng mà chở nổi."
Má tôi nói khó:
"Chị làm phước cho mấy chuyến. Thời buổi giặc giã ở có đức để lại cho con cái."
"Tui một mình chớ có ai mà đong phúc. Tui chưa đi mà ở đây chờ coi ông dôn tui có nổi lên ở khúc sông ni không."
Chúng tôi đã đoán ra lờ mờ câu chuyện. Chắc chồng chị ta vừa mới chết, và chị ta đang dở điên dở khùng. Chúng tôi lại nói khó. Chị đàn bà bằng lòng chở mấy chuyến. Qua khỏi khúc sông ngắn có mấy thước, Thái đưa tiền và buộc chị đàn bà phải lấy. Chị cầm tiền và trở mũi qua đưa những người khác đang đợi bên kia bến.
Tiếng súng ở bên phía cung An Ðịnh, bên phía đồng có vẻ êm hơn. Khi chúng tôi lên đường cái thì không còn sức để nghe ngóng nữa. Khu này yên tĩnh quá. Chưa một nhà nào bị hư hại gì hết. Bé nói:
"Mình tìm nhà quen ở để rồi mai mình về nhà. Chắc khu mình gần quốc lộ họ rút hết rồi."
Thái cãi:
"Rút chi nổi. Ðừng có lầm mà chết."
"Xe Mỹ ở quốc lộ chạy lên đồn An Cựu mà mi còn cãi nữa..."
"Xe Mỹ lên là nghe tiếng súng rồi, không thấy hay răng."
Chúng tôi tiếp tục chạy. Tôi hỏi Bé đây là miệt nào. Bỏ Huế lâu quá, tôi quên gần hết đường sá. Bé nói đây là đường lên Tân Lăng, lên chút là có chùa.
Nghe đến chùa, má tôi mừng rỡ:
"Mình vô chùa xin ở nhờ. Chắc họ không dám phá chùa mô."
Thái nói:
"Nhà thờ còn bắn sập huống gì chùa họ nể. Mà cứ thử coi."
Tôi mệt lả không đi được nữa. Lúc này tôi mới thấy chân nhức buốt. Tôi đã bỏ mất dép, chân tôi lại bị một mảnh kính cắt, máu còn rỉ rả chảy. Tôi ngồi bệt xuống đất:
"Con không đi được nữa."
Má tôi dỗ dành:
"Ráng chút nghe con, ráng đi chút con. Gần tới rồi."
Nhưng má tôi cũng mệt quá. Lúc này nhìn lại má tôi, tôi thấy bà vẫn còn xách cái xách áo quần nơi tay. Sự sợ hãi đã làm má tôi quên cái xách tay nặng nề. Thái vẫn ôm chiếc cặp da của tôi. Má tôi vừa nói vừa ngồi xuống bên cạnh tôi. Thu cũng ngồi theo, mấy đứa nhỏ cũng ngồi bệt xuống đất. Có mấy nhà mở cửa hé nhìn chúng tôi rồi vội đóng cửa lại. Tôi không hy vọng gì họ giúp chúng tôi lúc này. Thái và Bé quay lại, thấy chúng tôi ngồi bệt cả xuống đất và chú tôi nửa muốn ngồi nửa muốn đi thì giơ tay cản:
"Thôi, để tụi con tới chùa coi răng."
Nhưng đi được một quãng, chúng quay lại. Lúc này chúng mới để ý đến những đoàn người chạy loạn, đoàn này đi tới trước, đoàn kia chạy ngược lại. Hỏi họ thì ra phía nào cũng có đánh nhau hết. Vợ Bé đang ngồi bỗng đứng rột dậy:
"Quên rồi, ở xóm ni mình có chị U, mình vô tạm rồi sai con Thu về nhà coi ra răng."
Tôi cũng mong có chỗ ngồi nghỉ, uống một ngụm nước. Từ sáng đến giờ tôi chưa có miếng cơm, chưa uống được một giọt nước. Bé hăng hái dẫn đầu. Chúng tôi đi vào một xóm nhỏ toàn nhà tranh. Bé gõ cửa mãi mới thấy người ra mở cửa: Chị U.
Bé kêu mừng rỡ:
"Tưởng chị đi tản cư rồi chớ. Không can chi há?"
"Can chi. Ở đây mấy bữa ni có chi mô. Không ai đi hết."
"Không có mọt chê câu tới hả?"
"Không, xóm trong bị rồi. Mà ngoài ni đào hầm hết rồi. Can chi mà sợ."
Rồi chợt nhận thấy một đoàn người đông đúc đứng đàng sau lưng Bé, người đàn bà hỏi:
"Bà con hết há?"
"Dạ bác em nì chị. Chị em. Bác, đây là bà chị vợ của con."
"Vô, vô nhà hết đi, đừng đứng đây lộn xộn họ dòm ngó."
Cả đoàn kéo vô nhà. Nhà nhỏ, chật hẹp. Thái lót cái chăn dưới nền đất để nằm đỡ. Má tôi, vợ Bé mới sanh và mấy đứa nhỏ được chủ nhà nhường cho cái giường nhỏ, nằm sát vào nhau, chỉ trở mình nhẹ là có thể rớt xuống đất. Tôi, Thu và Thái phải nằm dưới đất. Trời bắt đầu mưa phùn, lạnh căm da. Vừa sợ, vừa lạnh lại thêm cái đói dày vò, tôi run lập cập. Người chủ nhà lấy cho tôi một bát cơm nguội ăn với xì dầu. Tôi ăn như chưa có bữa cao lương mỹ vị nào ngon lành đến thế. Ăn xong thì trời đã chiều. Thái hỏi dò người đàn bà xem ở đây có quân giải phóng không. Người đàn bà cười tươi tỉnh:
"Không răng mô. Họ về hoài, họ đi ngoài đường kệ họ. Họ tử tế lắm mà."
"Họ có soát nhà không?"
"Mấy bữa đầu thôi. Mấy hôm đầu họ nhờ mấy con nhỏ đi tải đạn, tải thương. Bữa ni hết rồi. Họ cũng là người chớ chi mà sợ. Họ tử tế lắm mà."
"Bà có nói chuyện với họ không?"
"Nói hoài. Có răng mô."
Người đàn bà ở với một bà già chồng gần bảy mươi tuổi và một đứa con trai út mười bảy tuổi. Người chồng bỏ đi thời kháng chiến cũ không thấy tin tức. Khi biết ra điều đó, tôi không còn lấy làm lạ về cảm tình của bà ta đối với mấy anh giải phóng nữa.
Buổi tối, chúng tôi không dám ngủ trên nhà mà xuống ngủ dưới hầm đào ở trước sân. Chú tôi, Thái và Bé vào ngủ ở nhà thờ của một dòng họ lớn trong xóm. Nhà thờ xây kiểu xưa, đá lớn chắc chắn lắm. Tôi, và những người đàn bà khác cùng trẻ con xuống hết dưới hầm. Chiếc hầm nhỏ quá mà phải chứa tới hơn mười mạng người, chúng tôi không còn chỗ đặt lưng.
Khoảng gần mười giờ là đại bác từ Phú Bài bắt đầu câu vào thành phố. Hỏa châu soi sáng rực cả bầu trời. Tiếng máy bay gần rồi xa. Không khí báo hiệu một cuộc đụng độ lớn. Cả thành phố như đều chìm trong điềm gở sắp bị tàn diệt. Tôi ôm chặt lấy má tôi, dựa đầu vào vai bà mà ngủ. Má tôi không ngớt lời cầu nguyện: Cầu cho con tôi tai qua nạn khỏi. Cho con tôi sống.
Tôi biết má tôi đang lo cho tôi nhiều nhất. Chồng con tôi ở Sài Gòn chắc đang bấn ruột bấn gan vì tôi. Nhưng tại sao tôi tin được chồng tôi còn rỗi rãi để lo cho tôi. Tin tức đồn đãi cả Sài Gòn và các tỉnh đã mất. Vậy chồng con tôi đã lưu lạc tới nơi nào rồi.
Tôi muốn nói: má ơi, con sợ quá. Nhưng tôi phải tỏ ra can đảm hơn để má tôi yên lòng đôi chút. Tôi nói:
"Ðánh nhau lớn chắc sắp yên rồi."
Tiếng nói của tôi thật nhỏ nhưng trong hầm kín mọi người đều nghe hết. Một cô gái mập ú đang ngồi sát bên tôi lên tiếng:
"Họ đông lắm chị."
Tiếng người con trai bà chủ nhà nói theo:
"Con ni nó đi khiêng xác đó chị, chết bất loạn."
Tôi hỏi:
"Khiêng đi mô."
"Khiêng lên tận trên núi. Họ chết nhiều lắm đếm không hết."
"Chị khiêng như vậy mà không sợ à?"
"Sợ bắt chết. Vừa khiêng vừa run. Trời lại lạnh nữa, hai đầu gối mình như muốn sụm luôn. Gớm bắt chết. Xác nào cũng dính đầy máu. Còn người bị thương thì chất lên xe như sắp cá rứa, người ni chồng lên người nọ, không biết mần răng mà sống cho được."
"Toàn là quân giải phóng hết?"
"Chơ răng. Họ chớ ai vô đó nữa."
"Khiêng xong họ cho về?"
"Họ còn bắt đi khiêng đạn chớ, mà tui trốn. Túi ni chắc trong họ cũng về bắt đi nữa. Tui trốn ra đây ngủ nhờ. Trong đó có mọt chê câu tới rồi đó."
Tôi không hỏi nữa, nhưng cô gái có đà, cứ nói tiếp:
"Nơi vườn cạnh nhà tui họ chôn người dễ sợ quá, lòi mấy cái chân."
"Nói dóc đi, bà nội."
Nghe cậu bé con bà chủ nhà nói móc, cô gái nổi sùng:
"Ðồ con trai chui dưới hầm cả ngày cả đêm biết chi. Ra ngoài mà coi thử. Sau chùa tề, họ chôn lòi tay lòi chân coi dễ sợ bắt chết. Nì, mi biết thằng Tư hớt tóc không?"
"Biết."
"Ờ. Hắn bị bắt ra ngoài vườn đào hố chôn xác chết, mà chôn sau vườn hắn mới ghê chớ. Hắn trốn đi được rồi."
"Tao ghét thằng đó lắm, cho họ bắt luôn."
"Mày ăn nói đoảng hậu chi rứa. Răng mà ghét người ta?"
Có tiếng người đàn bà tên là chị U gắt khẽ. Một trái hỏa châu rơi thật gần và lửng lơ hạ xuống. Ánh sáng soi rõ cả vào miệng hầm. Tôi nhìn ra được mặt cô gái. Má tôi kéo manh chiếu rách che bớt miệng hầm lại. Ðêm hôm đó chúng tôi ngồi suốt đêm. Ðại bác bắn ình ình vào các miệt, nhưng may mắn không có quả nào rơi vào xóm chúng tôi trú ẩn. Tiếng đại bác không ngớt, dội cả mặt đất. Mắt tôi như tá hỏa theo mỗi tiếng nổ, và cứ thế, cả đêm, trái tim đập liên hồi, nỗi lo sợ đặc quánh cho tới gần sáng.
Lại thêm một lần được may mắn nữa. Ðến gần sáng tiếng đại bác thưa dần chỉ còn nổ ỳ ầm ở miệt xa, như trên núi. Chờ thêm một tiếng đồng hồ nữa chúng tôi mới lên khỏi miệng hầm. Súc miệng bằng muối hột và rửa mặt bằng nước mưa. Trời vẫn còn mưa bay và lạnh giá, tôi khoác chiếc áo măng tô của ba tôi để lại trên người, cùng với Thái đi dần ra ngõ.
Dần dần bạo dạn, hai chị em ra tới miệt sông. Từ các phía vẫn còn những toán người tản cư lẻ tẻ. Thái đón lại hỏi, có người cho biết họ ở đồng An Cựu, hoặc ngả chợ An Cựu. Có người cho biết họ ở bên nhà thờ chạy qua. Cầu An Cựu còn không? Người trả lời còn, người trả lời bị sập. Không biết tin ở ai nữa. Thái nói với tôi là mình đã hết sức may mắn, đêm qua bên nhà thờ, Việt cộng đã tràn vào bắt hết đàn ông, công chức mang đi. Nó kể lại mà mặt nó tái xanh cắt không ra giọt máu.
Phía đường rầy vẫn có người đi. Thái chỉ cho tôi thấy những đoàn người xuôi ngược phía trên đường rầy, ẩn hiện sau những bụi cây thấp.
Khi hai chị em trở vào, Thái chợt nhìn lên ngọn điện cao. Nơi ngọn điện có tháp cây tre và trên cây tre một lá cờ hai mầu đỏ và xanh lá mạ bay phất phới. Chiều qua, khi đi ngang qua đây, khi nhìn lên cột điện này để coi trên trời có máy bay không, tôi đâu có nhìn thấy gì. Thái đem chuyện đó vào kể cho mọi người nghe, chả ai lấy làm lạ hết:
"Họ treo hoài. Họ treo cả trong chùa, nơi ngã ba nữa..."
Nhưng đến trưa hôm đó thì cả xóm nhỏ này không ai còn đủ bình tĩnh nữa. Ðại bác đã câu tới nơi. Tiếng máy bay như gầm, xé nát bầu trời ảm đạm, xám ngoét. Giữa trưa, chúng tôi phải chui xuống hầm. Một số khác vào nhà thờ họ. Những tiếng nổ rất gần, có lúc như dội ngay đầu. Còn nghe tiếng nổ là chưa chết. Thái bấm vào tay tôi:
"Chị bịt chặt hai tai lại, nằm sát cho đỡ tức ngực."
Một vài nhà có tiếng kêu khóc như ri. Nằm trong hầm chật quá, ngột không thở được, Thái chờ ngớt tiếng đại bác, kéo tôi chạy tọt vào nhà thờ. Từ trưa tới chiều tối hôm đó, đại bác không ngừng nữa, nhưng độ bắn đã đi xa hơn.
Buổi chiều, chúng tôi ra được ngoài trời khoảng chừng mười giây rồi lại chui vào hầm. Ðêm, tôi không vào hầm nữa mà ngủ dưới gầm một cái kệ trong nhà thờ họ. Mấy đêm liền không ngủ, tôi đã mệt nhoài người. Mặc súng, mặc đạn, mặc sống, mặc chết, tôi lăn ra ngủ. Nửa đêm, tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng máy bay, tiếng đạn réo, nhưng rồi âm thanh đó cũng chìm đi, cơn buồn ngủ đè nặng lên tất cả. Cho tới sáng hôm sau, Thái phải dựng cổ tôi dậy:
"Ðêm qua chị biết có chuyện gì không?"
"Chuyện gì?"
"Họ về đầy ở đây. Họ gõ cửa nhưng không thấy động tĩnh chi hết họ đi rồi."
Má tôi rầu rĩ:
"Ðiệu này chắc chết quá. Con Vân, túi qua ngủ dữ quá không biết chi hết há. Nổ gần lắm, chắc nhà cửa mình tan hết rồi."
Má tôi lại khóc. Vợ Bé bò ra khỏi bệ thờ, rồi tới lượt chú tôi cũng trở dậy:
"Chắc phải chạy nữa quá. Ở đây nguy rồi."
Chú tôi nói giọng lo lắng. Má tôi bảo Bé và Thu đi nấu cơm nhưng nhớ ra gạo chỉ còn một ít, má tôi nói:
"Nấu cháo ăn đỡ."
Chú tôi phàn nàn ở nhà còn nửa tạ gạo mà con Thu hôm qua về không tới nhà được để lấy đem đi. Con Thu về gần tới xóm thấy xóm vắng tanh nó lại sợ, bỏ đi trở về.
Nhưng nồi cháo chưa chín thì chúng tôi lại nghe tiếng máy bay đến, rồi đại bác dưới Phú Bài lại câu lên. Cả nhà lại vào hầm nhưng lát sau thấy tiếng súng không nhắm vào khu vực này, tôi và Thái lại bò ra vì ngột ngạt quá. Hai chị em chạy qua nhà chị U rồi lần ra ngõ. Có tiếng súng nhỏ bắn như mưa ở miệt Phủ Cam. Chắc chúng bắn máy bay, Thái thì thầm. Ngọn cờ màu máu mạ vẫn phất phới bay trên ngọn tre tháp vào cột điện. Vẫn còn người chạy loạn ở ngoài đường, chúng tôi đón lại hỏi nhưng không ai buồn trả lời, họ vừa khóc vừa chạy. Một đoàn người có võ trang từ phía cầu kéo lên Phủ Cam, Thái kêu tôi chạy vào một cái quán bỏ hoang. Ðoàn người đi ngang qua đường, mặt mày lầm lì, họ vác súng, tay đeo băng, áo quần hỗn độn, Thái thì thầm: Quân Bắc Việt đó. Tôi cố nhìn để phân biệt xem họ có khác gì mà Thái nhận ra được, tôi chịu nhưng không dám hỏi Thái.
Ðoàn người đi lên một lúc, chúng tôi định chạy ra khỏi quán để về nhà, nhưng từ phía Phủ Cam, tiếng chân, tiếng kêu khóc bỗng vang dội. Rồi một đoàn người nữa xuất hiện trước khi tiếng súng ròn rã nổ như mưa, tiếng máy bay gầm như xé trời và đại bác không kịp thở. Ðoàn người đến gần dần, Thái sửng sốt:
"Trời ơi, dân, dân chạy loạn."
Ðoàn người có đến cả trăm người, dẫn đầu là mấy ông cha, một hai ông sư. Họ cầm cờ trắng, làm bằng đủ thứ vải tơi tả, lá cờ hàng phục, lá cờ sợ hãi. Họ vừa đi, vừa chạy như những con lật đật. Phía sau những lá cờ trắng, những người dẫn đầu, dân chúng bồng bế nhau. Kẻ gánh người gồng chạy lúp xúp.
Thái đứng hẳn ra vệ đường giơ tay đón:
"Thưa cha, trên rứa răng?"
Ông cha lắc đầu, miệng như đang sùi bọt mép. Một tu sĩ bế một đứa bé bị thương máu chảy nhỏ giọt trên đường, đưa tay xua xua tỏ dấu bảo chúng tôi chạy theo, đừng đứng nguy hiểm. Nhưng ông cũng không nói nổi ra thành tiếng nữa. Ðoàn người cứ thế lần chạy qua mặt chúng tôi, đàn bà bế con, đàn ông gánh gồng, trẻ con chạy lúp xúp. Họ khiêng cả kẻ bị thương nữa. Một người đàn ông bị thương ở chân chạy khập khà khập khễnh, thỉnh thoảng té xuống đất rồi gượng dậy. Có kẻ một cánh tay đang đong đưa chỉ còn dính chút thịt da. Kẻ u đầu, người bể trán, những giọt máu rỏ đuổi theo mấy miếng vải trắng làm cờ đi tìm bình yên đang phe phất dẫn đầu. Ðoàn người vừa chạy vừa kêu khóc vừa cầu kinh, kẻ đọc kinh cầu Chúa, kẻ kêu trời gọi Phật.
Ðoàn người chạy lêu bêu xuống cầu rồi bỗng chạy ngược trở lại, rồi đang chạy ngược bỗng trở lui, tiếp tục về phía trước. Tiếng súng từ phía Phủ Cam vẫn như mưa, vài kẻ yếu đuối chạy cuối cùng cách đoàn người khá xa, họ kêu gào như đang tuyệt vọng sắp chết đến rồi:
"Cha ơi, chờ con. Cha ơi, cứu chúng con. Chúa ôi, quỷ đuổi chúng con..."
Tôi đỡ một người đàn bà vừa ngã sấp xuống mặt đường:
"Lên đây nghỉ đã chị, ở đây chưa đánh nhau, vô đây."
Người đàn bà đã bị thương ở đùi, máu ra nhiều lắm, nhưng vẫn gượng dậy lắc đầu:
"Tui chạy theo cha, chồng tui con tui trong đó mà."
Bà lại chạy. Thái chạy theo:
"Trên nớ còn chi không?"
"Hết cả, hết cả. Ờ, mà còn, còn nhiều người kẹt lại, còn hơn trăm thanh niên đang bị vây không chạy được."
"Họ bị vây?"
"Họ bắn lại, họ bắn lại... Cha ơi, chờ con với cha ơi."
Người đàn bà lại chạy, nhưng đoàn người đã bỏ cách xa bà ta quá. Một tiếng nổ lớn. Tôi lóa mắt. Thái ôm chặt lấy tôi:
"Chạy, chạy chị. Cầm tay em nì."
Thái kéo tay tôi lọt vào xóm. Ðoàn người như tan tác ở đằng xa, rồi qua lớp khói bụi, tôi lại thấy họ chạy tiếp tục.
Khi tôi vào tới nhà thờ họ thì má tôi đang nằm ở mé cửa chờ. Bà nạt tôi một hồi rồi kéo tôi dúi xuống bệ. Như ngày xưa, má tưởng con như ngày xưa còn bé. Tôi chui tọt vào bên trong tìm một chỗ dựa đầu mà không có. Má tôi nằm phía ngoài hỏi vọng lại:
"Nằm yên, con Vân mô rồi. Ðừng có nằm phía ngoài nghe."
Má tôi nói vậy mà bà nằm phía ngoài. Con Thu rỉ nhỏ bên tai tôi:
"Nồi cháo cháy rồi."
Lúc đó tôi không thấy tiếc gì nồi cháo nữa, dù trước đó tôi đã đói cồn cào. Thu lại nói:
"Chị đi đâu làm bác cứ đòi chạy ra tìm, em phải ôm bác lại."
Tôi muốn khóc quá, tôi đưa tay cầm chặt gióng tre kê dưới bệ thờ, chỉ có một khoảng cách ngắn, tôi ao ước cầm bàn tay má tôi mà không được. Trong bóng tối lờ mờ, tôi thấy có đốm lửa nhỏ lóe lên. Chắc Thái đã tìm đâu được điếu thuốc. Nó nói với tôi:
"Hỏi bác hút thuốc không."
Tôi hỏi tìm ở đâu đó thì nó nói:
"Cả bao đầy lận. Em lượm được khi đoàn người đi qua rồi. Chắc ai rớt."
Tôi nghĩ tới những giọt máu rơi vãi ở dọc đường, những giọt máu đó đang kéo dài đến đâu rồi. Bất giác tôi rùng mình. Thu hỏi:
"Chị lạnh hả?"
Tôi lắc đầu, nhưng chắc Thu chả trông thấy gì đâu. Thái đưa cho tôi một điếu thuốc và nói với tôi đưa cho bác hút đỡ lạnh. Ðiếu thuốc chưa kịp đưa đi đã rơi khỏi tay tôi lúc nào. Sợ gây tiếng động, tôi không dám đưa tay sờ soạng nữa. Từ lúc đó tới trưa, chúng tôi không còn dám mở mắt nhìn thấy ánh sáng bên ngoài nữa. Ðại bác câu vào như không còn tính khoảng cách. Trên đầu tôi, xung quanh tôi, tiếng nổ dội như vỡ tung lồng ngực, như bể đôi cái đầu. Má tôi hô mọi người nằm rạp xuống đất. Nằm rạp xuống đất hết rồi cũng chưa được, ôm chặt lấy nhau để có chết cùng chết một đống. Nhưng không, tôi không thể chết một đống được, tôi phải sống để còn trở về với con tôi và dù Sàigon còn hay mất, các con tôi cũng phải sống để chờ tôi về nữa. Ðừng có chết. Cho tôi sống.
Tiếng nổ như bưng tôi vất trong lửa đỏ. Một tiếng, hai tiếng, tiếng

No comments:

Post a Comment